Từ điển Phật Pháp (Buddhist Dhamma Dictionary)
Từ điển Phật Pháp (Buddhist Dhamma Dictionary)
TỪ ĐIỂN PHẬT PHÁP
CHẾ ĐỘ XEM
Bản Google Docs
link
Bản web
link
TRANG WEB PHẬT PHÁP UY TÍN
theravada.vn
budsas.org
vdpzoom.com
thuvienhoasen.org
suttacentral.net
dhammawheel.com
buddho.org
dhammawiki.com
thegioiphatgiao.org
encyclopediaofbuddhism.org
VIDEO, SÁCH eBOOK PHẬT PHÁP
Cuộc đời Đức Phật (phim Youtube)
Web
Đức Phật và Phật Pháp
Web
Phân tích Duyên khởi - Paṭṭhāna Pakaraṇa (nhân quả, 12 nhân duyên)
Web
Vi Diệu Pháp Toát Yếu - Abhidhammattha Saṅgaha
Web
Học Tứ diệu đế và Vi diệu pháp (A-tỳ-đàm)
Web
Thanh tịnh đạo - Luận sư Buddhaghosa (Phật Âm)
Web
.Doc
Học Vi Diệu Pháp (VinhPN)
.Doc
Hình ảnh minh họa
Luận về mối tương quan giữa Phật Pháp và khoa học
.Doc
THỰC HÀNH THIỀN
Thiền minh sát (Vipasana)
.Doc
Thiền định (Samatha)
.Doc
Đừng coi thường phiền não (TS. U Tejaniya)
Chỉ mỗi Chánh niệm thì chưa đủ (TS. U Tejaniya)
Pháp ở mọi nơi (TS. U Tejaniya)
Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma Sambuddhassa
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Idam Nona, tinam Hotu Sukita Hontuna tayo
Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.
Nguyện cầu phước thiện bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.
Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.
Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này, được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.
Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.
Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.
Cụ thể Đức Phật đã dạy những gì?
An trú trong thực/hiện tại và đi con đường Trung đạo là Đạo Phật.
An trú là sống trọn vẹn với thời khắc hiện tại. Đang làm gì
Cứ đi như vậy cho tới khi nhắm mắt xuôi tay thì sẵn sàng ra đi trong Tâm Thế An Nhiên
An trú để Trả nghiệp và dừng Nghiệp
Và ngay bây giờ nếu không có hoan hỉ, an nhiên, tự tại thì tương lai cũng chẳng có Niết bàn
Mọi người ai cũng đã giác ngộ rồi nhưng chẳng qua là họ chưa biết mình giác ngộ. Ai cũng đang lặn trong bể nước nhưng vẫn đang hỏi nước là gì?, nước ở đâu?
Cụ thể người nào còn Phiền não (Tham, Sân, Si) thì còn chưa biết mình đã giác ngộ nên chưa thể giác ngộ.
Dù gì thì gì. Tam cõi, Lục đạo, Ngũ uẩn, Luân hồi sinh tử, Ma Vương... đều là những tuyệt phẩm
Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Giới-Định-Tuệ, Tam pháp ấn, Pháp duyên khởi... của ĐP cũng là những siêu tuyệt phẩm
Và chỉ có sự an nhiên, tự tại mới có thể lặng lẽ ngắm nhìn những tuyệt phẩm này một cách AN NHIÊN!
Phụ chú: An nhiên = là Tâm tĩnh lặng nhìn vạn pháp mà không này tâm yêu ghét, phán xét hay phân biệt. Pháp vốn ý như nó là, có yêu ghét thì nó vẫn thế. Nó vốn vậy nên đã/đang/mãi sẽ như vậy.
Thấy được lý lẽ của “Ma Vương”. Không chỉ thuyết phục bằng hình ảnh như trong phim đâu. “Ma Vương” cũng có Biện vô ngại giải như các vị Thánh vậy!
Chỉ có khác là Ma Vương ở quan điểm đối lập và đưa ra luận điểm siêu, siêu, siêu... thuyết phục để Hành giả quay lưng với con đường của Đức Phật.
Hành giả nào mà không có Chánh tri kiến thì sẽ bị lung lay và chuyển hướng quay đầu.
Tới đây mới thấu hiểu rằng. Muốn theo được ĐP phải có bộ ba viên mãn Bi-Trí-Dũng!
Giác ngộ là gì? Giác ngộ là “Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”
Tinh tấn-Chánh niệm-Tỉnh giác
“Trên đường Đạo không gì bằng Tinh tấn.
Không gì bằng Trí tuệ của đời ta.
Sống điêu linh trong kiếp sống Ta bà.
Chỉ Tinh tấn là vượt qua tất cả.”
Thực chất khi Ta đang nghe đối phương trình bày trong điện thoại thì trong ý nghĩ (Tâm, Ý thức) đã có sẵn 3, 4 kịch bản để đối đáp dựa trên các dữ kiện đã có trong Thức. Và kịch bản đã Ta chọn để giao tiếp/ứng biến là cái ta nói ra bằng lời. “Ta chọn” là Thức.
Mà a nó cứ nhảy qua nhảy lại rất nhanh. trong lúc a nói mà từ khi nói bằng miệng ra có vẻ sai a lại nhảy về tìm 1 chữ phù hợp chèn vô. giống như sửa lỗi chính tả ấy a
Căn-Trần-Thức -> Thọ-Tưởng-Hành -> Pháp 1 -> Căn-Trần-Thức -> Thọ-Tưởng-Hành -> Pháp 2
Một vòng luân hồi luẩn quẩn
Chúng ta sinh ra là để làm đi làm lại vòng luẩn quẩn này. Cái vòng này là cái vòng KHỔ
Con đường trung đạo
Dứt bỏ sự yêu ghét và thản nhiên trước mọi hiện tượng đang xảy ra
Cảnh giác trước mọi tác ý (tâm ý) liên quan tới Hữu ái (yêu) và Phi hữu ái (ghét)
Đường đôi (2 thái cực): đam mê, say mê, yêu, thích >< ghét, sợ hãi, ghen ghét, xua đuổi, trốn tránh
Nếu khởi lên tâm ý thì phải trên tinh thần Từ-Bi-Hỷ-Xả, Lợi mình-Lợi người-Lợi chúng sinh; không tác ý chỉ để thỏa mãn cái Bản ngã vị kỷ
Không tranh giành chính là Từ bi
Không tranh cãi chính là trí tuệ
Không nghe thấy chính là thanh tịnh
Không nhìn chính là tự tại
Không tham lam chính là bố thí
Đoạn tuyệt cái ác chính là làm việc thiện
Sửa đổi chính là sám hối
Khiêm tốn chính là lễ Phật
Tha thứ chính là giải thoát
Thấy đủ chính là buông bỏ
Lợi người chính là lợi mình.
A
A-la-hán
A-la-hán (Đạo quả vô sanh, Tứ quả) là Thánh quả cuối cùng,
Các vị chứng đắc quả vị thánh cao tột này đoạn diệt hoàn toàn được 5 Triền cái và 10 Kiết sử.
A-la-hán thuộc hàng Chư Phật cùng với Bích Chi Phật (Phật Độc Giác) và Phật Chánh Đẳng Chánh Giác.
"Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa".
A-tăng-kỳ
1 A-tăng-kỳ = 10¹⁴⁰ năm
A-lại-da thức (Alaya)
Alaya thức được xem là thức căn bản của mọi hiện tượng, nên còn gọi là Tàng thức (kho tàng thức). Thức này chứa đựng mọi sự trải nghiệm của đời sống mỗi con người và nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần.
Khái niệm A-lại-da thức là cơ sở của Duy thức tông (Bắc tông), qua đó người ta giải thích sự hiện hữu của "con người", của "cá nhân". Theo đó, các chủng tử (sa. bīja), tức là các hạt mầm của Nghiệp (sa. karma, pi. kamma) được chứa đựng trong A-lại-da thức và đợi nhân duyên đầy đủ sẽ hiện thành tư tưởng. Các tư tưởng có tính riêng tư đó tác động trong mối liên hệ với Vô minh (sa. avidyā) và Ngã chấp (sa. ātmagrāha) làm cho con người ta tưởng rằng có một con người đứng sau mọi hành động của mình. Tư tưởng đó lại gây tiếp các chủng tử của nghiệp, và nghiệp lại tiếp tục tạo tác. Vòng luẩn quẩn này chỉ được đối trị bằng quan điểm cho rằng, không hề có một thế giới độc lập ngoài Tâm (vạn pháp duy tâm tạo, tam giới duy tâm vạn pháp duy thức). Theo đó thế giới chỉ là phản ánh của A-lại-da thức, con người chỉ thấy bóng dáng của chính tâm thức nó. A-lại-da thức thường được xem như là "sự thật cuối cùng", có khi được gọi là Chân như (sa. tathatā). Theo một quan điểm Phật giáo khác thì A-lại-da thức chỉ là nơi tập hợp của mọi nghiệp xưa cũ (Pháp tướng tông).
Nói một cách dễ hiểu nhất, A-lại-da thức được ví như một kho tàng của các loại hạt giống (gồm những thiện và bất thiện nghiệp) mà một chúng sinh đã tạo ra trước đó được huân tập không sót một chi tiết nhỏ nào. Khi gặp thời cơ thuận lợi, một hoặc nhiều hạt giống (tốt và xấu) sẽ được đưa ra, gieo trồng và trổ quả, kết quả là chúng sinh được sinh ra phải hưởng những quả do những kiếp quá khứ đã làm ra mà không thể trốn tránh, chối bỏ nó, những hạt (chủng tử) này sẽ liên tục được trau dồi vào kho tàng A-lại-da thức cho đến khi chúng sinh đó hoàn toàn đạt được giác ngộ.
A-lại-da thức (Tàng thức) trong Duy thức học ~ Lậu hoặc trong Vi diệu pháp
A-tỳ-đàm
A-tỳ-đàm = Vi diệu pháp (Abhidhamma). Abhidhamma dịch ngữ là A-tỳ-đàm, dịch nghĩa là Vi diệu pháp.
Ác kiến
Ác kiến = Tà kiến. Xem “Tà kiến”
Ác pháp
Ác pháp = Bất thiện pháp. Xem “Bất thiện pháp”
An lạc (Sukha)
An lạc là cảm giác hạnh phúc viên mãn nơi Thân và Tâm (Khinh an)
An lạc (Sukha) >< Khổ (Dukkha)
An trú
An trú là trạng thái của Tâm định
An trú là sống hòa hợp với và trong Cảnh giới hiện tại (ứng xử, thái độ phù hợp). Sống trong cõi Dục giới về bản chất là ta đang bơi trong cái bể Trần cảnh bị nhiễm ô bởi Dục lậu (bị Ái nhiễm cả bên trong lẫn ngoài Thân-Tâm). Biết chấp nhận thực tại và lấy tinh thần Hoa Sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, lấy nhiễm ô làm vật chất để dung dưỡng cho tinh thần thăng hoa (hương thơm).
An trú là giữ Thân và Tâm cân bằng ở cả 2 khía cạnh vật chất và tinh thần (Trung Đạo). Mất cân bằng sẽ dẫn tới động loạn. Động loạn Thân thì ảnh hưởng tới Tâm và ngược lại. Giống như cốc nước bị rung lắc thì nước bên trong sẽ bị sóng sánh, ánh sáng bị khúc xạ khiến mọi vật khi được phản chiếu qua bề mặt nhiễu loạn đó sẽ không còn “y như nó là” nữa (sai lệch, thiếu sáng suốt).
An trú là trở về với Thực tại hiện tiền đang diễn ra trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp (Tứ niệm xứ). Đức Phật: "Không hồi tưởng quá khứ, đừng vọng tưởng tương lai, an trú trong hiện tại, Tuệ quán chính là đây". Đây là Pháp tu trực diện và hữu hiệu nhất, là Pháp bảo Đức Phật đã ban tặng cho con người.
Định là phương tiện, không phải là mục đích: Không nên coi Định như là một mục đích, cứu cánh của ta. Dụng công của Định là để nuôi dưỡng tâm, để quán sát thực tại Tục đế (tương đối) và Chân đế (tuyệt đối, Bản thể).
Thanh tịnh và Tỉnh giác là những kết quả mà Thiền sẽ mang đến cho ta. Phần đông chúng ta đều muốn được an lạc. Ai cũng muốn được bình yên, muốn được có cảm giác vui sướng, mãn nguyện. Trong Thiền định, nếu ta thoáng bắt được cảm giác an lạc đó, ta sẽ hạnh phúc biết bao. Nhiều người đã thỏa mãn khi đạt được đến trình độ đó. Nhưng thanh tịnh (trạng thái của Tâm định, Tâm an trú) không phải là mục đích của Thiền. Đó chỉ là phương tiện đưa đến cứu cánh. Thanh tịnh là phương tiện. Sự tỉnh giác trong nội tâm mới là cứu cánh. Phương tiện rất cần thiết nhưng không thể lầm lẫn chúng với cứu cánh. Nhưng vì phương tiện đó tạo ra sự thoải mái, dễ chịu, ta trở nên bám víu vào chúng.
An trú trong Tâm thiện, Tâm thanh tịnh (tụng Kinh niệm Phật là một ví dụ). An trú lâu dài trong một tâm nào đó thì tâm đó sẽ tăng trưởng lên, quảng đại thêm.
Kinh Song Tầm và An Trú Tầm có nội dung tuơng tự, nhưng được triển khai dưới hai hình thức khác nhau dành cho hai hạng căn cơ khác nhau:
Kinh Song Tầm thuật lại kinh nghiệm loại bỏ Dục tầm, Sân tầm và Hại tầm của Đức Thế Tôn khi còn là Bồ tát. Do vì Tâm của Bồ tát thuần thiện nên chỉ cần tác ý đến mối nguy hiểm của Bất thiện tầm thì Bất thiện tầm liền tiêu mất. Hoặc giả, Bồ tát chỉ tác ý đến Thiện tầm thì Bất thiện tầm cũng tiêu biến.
Hầu hết các căn cơ ở đời có Tập khí bất thiện tầm để lại từ quá khứ, và tập quán Bất thiện tầm đến từ ảnh hưởng của văn hóa xã hội đương thời quá mạnh nên sự tác ý đến mối nguy hiểm của Bất thiện tầm, hoặc sự tác ý đến Thiện tầm, không đủ sức mạnh giác tỉnh để tiêu diệt các Bất thiện tầm ấy. Do đó, trong Kinh An Trú Tầm, Đức Thế Tôn chỉ dạy thêm các phương cách đối trị.
Các phương cách đối trị các bất thiện tầm
Tác ý năm tướng:
Khi hành giả tác ý một tướng nào mà Dục tầm, Sân tầm, Hại tầm sanh khởi, thì nên tác ý đến một Tướng thiện khác để đoạn diệt các Bất thiện tầm.
Nếu làm như thế mà Bất thiện tầm vẫn sinh khởi, thì quán sát sự nguy hiểm của các Bất thiện tầm ấy, chúng sẽ tiêu biến.
Nếu làm thế mà Bất thiện tầm vẫn tồn tại, sinh khởi, thì nên quên chúng đi, không tác ý đến chúng, chúng sẽ bị diệt.
Nếu làm thế mà bất thiện tầm vẫn khởi thì tác ý đến hình thái và chức năng, Hành tướng (Ākāra) của chúng, chúng sẽ diệt.
Nếu đã làm thế mà vẫn chưa đoạn diệt được Bất thiện tầm, thì chỉ còn cách sau cùng là khởi ý thật mạnh, quyết tâm mạnh, dũng mãnh, nghiến răng và dán chặt lưỡi lên nóc họng, dùng ý chế ngự ý, nhiếp phục ý thì dần dần các Bất thiện tầm sẽ trở nên muội lược, rồi tiêu biến.
Bấy giờ thì tâm hành giả trở nên rất định tĩnh, làm chủ được các Tầm, có thể tác ý đến tầm nào theo ý muốn, hành giả sẽ đi đến điểm cắt đứt khát ái, kiết sử, chấm dứt khổ đau.
Kinh An Trú Tầm và các kinh từ 11 đến 19, kiết tập những chỉ dẫn rất thiết thực, nhất quán giới thiệu một đạo lộ giải thoát tâm mà bất cứ ai muốn đều có thể thực nghiệm. Đạo hay giải thoát là những gì rất thực, có thể nắm bắt được ngay trong hiện tại. Đối với những ai còn ham muốn, đắm say dục lạc, xem dục lạc như là lẽ sống, sống là hưởng thụ dục lạc thì 10 kinh vừa giới thiệu: từ 11 đến 20 trở nên xa lạ, lạc lõng, không thiết thực. Nhưng, đối với tâm hồn nghiêm túc có khát vọng giải thoát, nghiêm túc muốn thể nghiệm con đường giải thoát của Phật giáo, thì 10 Kinh vừa kể chói sáng lên những ánh hào quang tuyệt vời, từng dòng kinh là từng dòng châu ngọc. Đó là kho tàng vô giá.
Đến với Phật giáo, với các giá trị giải thoát là đến với thực hành. Đến để mà thấy, mà không phải đến với thế giới hý luận. Học Phật là thế! Diễn pháp là thế!
An trú >< Vọng
“Hồi đầu thị ngạn” (回頭是岸) = Quay đầu lại liền thấy bến bờ, Quay đầu là bờ
Xem thêm: “Định”, “Kinh song tầm”, “Kinh an trú tầm”
Ác
Ác = Bất thiện -> Xem “Bất thiện”
Xem thêm: “Ác kiến”, “Tà ác”, “Ác pháp”
Ác kiến
Xem “Kiến hoặc”
Ái (Taṇhakkhaya)
Dục ái, Hữu ái, Phi hữu ái. Tam ái là nguồn gốc, nguyên nhân của khổ đau (Tập đế). Luyến ái thuộc phạm trù Dục thủ trong Tứ thủ (xem thêm “Tứ thủ”, “Dục thủ”, “Ly dục”)
Ái (Taṇhā): “Do Ái phát sanh sầu muộn, do Ái phát sanh lo sợ. Người đã trọn vẹn thoát khỏi Ái không còn sầu muộn, càng ít lo sợ”. Kinh Pháp Cú câu 216.
Ái là một năng lực tinh thần hết sức hùng mạnh, luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người, mọi chúng sanh, là nguyên nhân của bao nhiêu điều bất hạnh trong đời. Chính Ái - dù là thô tục hay vi tế - đều khiến ta bám víu vào sự sống dưới mọi hình thức và, do đó, dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạc trong vòng sinh tử luân hồi.
Hình thức thô kệch nhất của Ái được giảm suy khi ta đắc Đạo Quả Nhất Lai (Tư Đà Hàm, Sakadāgāmi), tầng thứ nhì trong Tứ Thánh Quả, và tận diệt khi đắc Đạo Quả Bất Lai (A Na Hàm, Anāgāmi). Đến khi chứng đắc Đạo Quả Vô Sanh (A La Hán, Arahant) mới hoàn toàn dập tắt mọi hình thức vi tế của Ái.
Cả hai, đau Khổ và Ái chỉ có thể được tận diệt bằng cách đi theo con đường “Trung Đạo” mà Đức Phật đã vạch ra để thành đạt hạnh phúc tối thượng (Niết Bàn).
Đối tượng của Ái trong Chân đế: Sắc ái, Thanh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái
Đối tượng của Ái trong Tục đế (Thế gian): Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy
Ái (Taṇhā, luyến ái) gồm có: Dục ái, Hữu ái và Phi hữu ái.
Từ đồng nghĩa với luyến ái: mong muốn (có/đạt cái gì, trở thành), ham muốn, mong cầu, khát vọng, khát khao, thèm khát, đam mê, thích thú, yêu thích, hâm mộ, ưa thích, ái mộ, yêu mến, mến mộ…
Dục ái (Kāma Taṇhā): là lòng khao khát các dục trần khả ái, thuộc bản thân mình hay đối với Trần cảnh (Sắc ái, Thanh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái). Dâm dục, Dục vọng đối với người khác giới tính thuộc Sắc ái. Lưu ý, Dục ái khác với Tham ái. Nói cách khác Tham ái nằm trong Dục ái.
Hữu ái (Bhava Taṇhā): Hữu ái là yêu thích, muốn giữ lại cảm thọ dễ chịu (chấp thủ, dính mắc, bám chấp vào Thọ lạc), mong muốn có điều gì đó trong cuộc đời -> sinh ra Tâm tham
Phi hữu ái (Vibhava Taṇhā): Phi hữu ái là ghét bỏ, uốn xua đuổi, trốn tránh cảm thọ khó chịu (chấp thủ, dính mắc, bám chấp vào Thọ khổ), không muốn có trong cuộc đời -> sinh ra Tâm sân
Cả Hữu ái và Phi hữu ái đều có thiên hướng chấp thủ.
Chấp thủ Hữu ái (Ái hữu) là điều ai cũng nhận ra dễ dàng
Chấp thủ Phi hữu ái: Nuôi dưỡng lòng thù hận là nuôi dưỡng nỗi khổ/điều ta ghét, dung dưỡng điều bất đắc như ý (Khổ dâm) nhằm phục vụ cho một Dục ái sâu xa. Ví dụ: Việt Vương Câu Tiễn nếm mật nằm gai (khổ dâm) để chờ tới ngày vui sướng khi nhìn thấy kẻ thù bị tiêu diệt/khổ đau (Tâm tầm diệt).
“Căn bản của Vô minh là Tham ái/Ái dục”, “Thiểu dục tri túc”, “Ly dục sinh Hỷ-Lạc”
Xuất gia cắt tóc là Tướng, Xuất gia cắt Ái (Ly dục) mới là Tánh.
“Từ đây xin bỏ hình hài
Cắt dây tham ái, lìa người quyến thân
Chuyện đời xem tựa phù vân
Sớm hôm trì trí chuyên cần lo tu.”
“Ở đây này các Tỳ kheo. Ly dục, ly Bất thiện pháp chứng và trú tầng Thiền thứ nhất - một trạng thái Hỷ-Lạc do Ly dục sanh, có Tầm, có Tứ…” - Trung Bộ Kinh, 52 Kinh Bát Thành).
# Đúc kết:
Ái-Thủ-Hữu là Hành. Vậy Ái là Hành, Hành do Vô minh vậy Ái là Vô minh
Ái là nguyên nhân của Khổ, của phiền não. Vậy Ái (Tham ái, Dục ái) thuộc Khổ đế (Dukkha)
Ly dục (xả ly, buông xả Dục ái) là Diệt đế
CHỦ THẾ
ĐỐI TƯỢNG
THÁI ĐỘ (PHẢN ỨNG TÂM, ĐỐI ĐÃI)
ÁI
Dục ái
Thỏa dục, thỏa mãn
mong cầu, tầm cầu, mưu cầu, kiếm tìm, săn đuổi, khát khao, mơ ước, thương nhớ, tơ tưởng, nhớ nhung, mong mỏi, ve vãn, gạ gẫm, nịnh nọt, xu nịnh, tìm vui
PHIỀN NÃO (gốc Tham, Sân, Si)
Hữu ái (Lạc ái)
Dễ chịu (Hỷ-Lạc)
yêu, thích, thiện cảm, hài lòng, quý trọng, trọng vọng, mến mộ, lưu luyến, thương mến, khuyến khích, khuyến nghị, ca ngợi, khen ngợi, trìu mến, hứng thú, thú vị, phấn khích, đắm đuối, nghiền nghiện, tham đắm…
Phi hữu ái (Khổ ái)
Khó chịu: (Ưu-Khổ)
ghét, ác cảm, phản cảm, khinh thường/bỉ, tầm diệt, tầm hại, bất mãn, xua đuổi, xa lánh, trốn tránh, đe dọa, khinh thường, phiền phức, than phiền, phàn nàn, khuyến cáo, nhàm chán, chán nản, chửi bới, la mắng, chê trách, hận thù, oán hận…
Hữu ái và Phi hữu ái đều là dính chấp vướng mắc, mắc kẹt dẫn tới chấp thủ và rồi hiện hữu (Ái-Thủ-Hữu)
Trốn khổ tìm vui (tầm cầu Hữu ái và trốn chạy Phi hữu ái) là Đạo trời (Thiên đạo)
Ái kiết sử, Ái triền cái
- Thiền dục giới là Ái-Thủ-Hữu (Hữu ái) Cõi dục giới -> Phi hữu ái (sân, ưu) trước phước báu nhân duyên hữu lậu (thân hoại mạng chung) -> Luân hồi
- Thiền sắc giới là Ái-Thủ-Hữu (Hữu ái) cõi sắc giới -> Phi hữu ái (sân, ưu) trước phước báu nhân duyên hữu lậu (thân hoại mạng chung) -> Luân hồi
- Thiền vô sắc giới là Ái-Thủ-Hữu (Hữu ái) Cõi vô sắc giới -> Phi hữu ái (sân, ưu) trước phước báu nhân duyên hữu lậu (thân hoại mạng chung) -> Luân hồi
Vô minh - Ái dục là căn bản của phiền não
Ái hà thiên xích lãng - 愛 河 千 尺 浪 (Nhân)
Khổ hải vạn trùng ba - 苦海 萬重 波 (Quả)
Dục thoát luân hồi khổ - 欲 脫 輪 迴 苦
Tảo cấp niệm Di Đà
Si ái: nghiệp của tôi nặng lắm nên không dám mơ giải thoát, tập khí của tôi sâu dày nên khó tu lắm, tôi già rồi nên sức học kém nên mới không hiểu ĐP…
Xem thêm: Tham dục (Ái, Sắc, Danh, Thực, Thùy), Tham ái (yêu thương người và muốn được người yêu thương)
Ái kiết sử
Ái kiết sử = sợi dây trói buộc vào Tham dục, Tham ái
Ngày đêm day dứt nhớ mong
Ái-Thủ-Hữu
Thân-Khẩu-Ý chính là Hành (Tâm hành, Tâm tạo tác), mà Hành chính là Ái-Thủ-Hữu.
Hành thuộc về quá khứ do Nghiệp lực, Ái-Thủ-Hữu là Hành trong hiện tại có tính chất tạo tác, tạo nghiệp
Cố ham (Ái) - Cố thủ (Thủ) - Cố hữu (Hữu)
Ái-Thủ-Hữu = Hành = Ngã luận thủ
“Lục Ái, Tứ Thủ, Tam Hữu”
Hình ảnh con thiêu thân lao vào ngọn lửa rồi bốc cháy (con người cũng vậy) là mô phỏng xác đáng về kết cục của Ái-Thủ-Hữu
Xem chi tiết tại đây
Ái trong cõi Sắc giới (Bhava Taṇhā)
Ái trong cõi Vô sắc giới (Vibhavataṇhā)
Ái dục muốn sanh về cõi Vô sắc giới là các người tham thiền khi đắc các cõi thiền hữu sắc rồi chán nản suy xét rằng: “Còn sắc tướng đây thì có ngày cũng còn phải sinh-lão-bện-tử, nếu ta đắc được các cõi thiền vô sắc (Arūpajhāna) thì còn có xác thân đâu mà già đau chết được? Rồi ham muốn hành cho đắc các cõi thiền vô sắc ấy (bốn cõi ấy là Không Vô Biên thiên, Thức Vô Biên thiên, Vô Sở Hữu thiên và Phi Phi Tưởng thiên) hoặc là người có đoạn kiến cho rằng khi chết rồi thì mất luôn không còn sanh lại đâu nữa. Ưa thích như thế cũng gọi là ái dục trong cảnh vô sắc.
Ấm
Thức ấm, Ngũ ấm
B
Ba-la-mật (Pāramitā)
Ba-la-mật là “qua bờ bên kia”, Đáo bỉ ngạn, vượt thoát, đưa đến giải thoát. Pháp ba-la-mật là pháp giúp đưa chúng sanh từ bờ mê sang bờ giác (giải thoát).
Trí tuệ ba-la-mật tức là trí tuệ đem tới sự giải thoát, trí tuệ thấu triệt (Sacchikātabba), trí tuệ vô lậu, Tuệ thấy hoàn toàn đúng như thật (như nó là).
Ba-la-mật là chặt đứt, đoạn lìa, đoạn diệt Vô minh và Phiền não. Vậy nên Ba-la-mật = Trí tuệ bát nhã; Vô minh = Phiền não, Lậu hoặc. Nói một cách có hình tượng thì Ba-la-mật chính là thanh gươm sắc bén của Trí tuệ bát nhã.
“Bể ái hà là dây oan nghiệt.
Danh lợi tình càng siết càng đau.
Muốn ra khỏi chốn đồ lao.
Dùng gươm trí huệ cắt ngay lòng phàm”
Làm phước tích đức nhưng không phát tâm cầu giải thoát -> Phước đức hữu lậu
Làm phước đức, lập công đức (phước-huệ song tu) với tâm nguyện giải thoát -> Công đức vô lậu (Ba-la-mật)
Pháp tu vô lậu là những công phu huân tập Công đức vô lậu (không bị rò rỉ, rơi rớt, cùn mòn, cạn kiệt, tiêu hao)
10 pháp tu Ba-la-mật
Pháp tu ba-la-mật là: Bố thí (Dāna), Trì giới (Sīla), Xuất gia (Nekkhamma), Trí tuệ (Paññā), Tinh tấn (Vīriya), Kham nhẫn (Khanti), Chân thực/đúng đắn/Chân lý (Sacca), Quyết tâm/dứt khoát/kiên quyết (Adhītthāna), Tâm từ (Mettā) và Tâm xả (Upekkhā).
Pháp tu Ba-la-mật (pháp tu để có Ba-la-mật) là công phu tu tập đoạn trừ, đoạn diệt được Vô minh, Lậu hoặc, diệt trừ rốt ráo những Phiền não Tham-Sân-Si ẩn tàng dưới tầng sâu trong Tâm thức. Ba-la-mật là Quả cứu cánh - tức là việc tu tập đã phát huy được tác dụng và hiệu quả (Nhân mới thù thắng) chứ không phải pháp tu (phương tiện) đó là Ba-la-mật. Ba-la-mật cao nhất là Lậu tận minh (Quả vị Phật)
Hạnh chân thật: chân thành, thực lòng, không giả dối, không xúc xiểm. “Thành tín tình tối thượng!”.
Kiên quyết: quyết tâm dứt khoát, không lưỡng lự, do dự. Phát tâm tu tập một cách mãnh liệt, kiên quyết. “Một lời thề nguyện con ơi, thần linh chứng giám đất trời tỏ thông”.
Xuất gia: Xuất gia = (Xuất thế tục gia + Xuất phiền não gia + Xuất tam giới gia). Thân xuất gia (Tướng), Tâm xuất gia (Tánh). Xuất thế gian đồng nghĩa với Ly dục, Ly ác pháp.
Tâm từ bi: nhận thức sâu sắc rằng chúng sanh đang sống trong bể khổ. Việc họ vô minh (ác tâm, tà tâm, gây phiền não, chướng ngại cho chúng sinh khác) khiến họ càng chìm sâu vào trong bể khổ. Những phiền toái, chướng ngại họ gây ra cho mình không đáng gì so với quả họ sẽ phải nhận -> Phát tâm từ-bi-hỷ-xả, cứu độ chúng sinh.
Nhận thức rõ rằng những chướng ngại, phiền não ta gặp trong đời dều là Nghiệp quả của Nghiệp nhân trong quá khứ -> thanh thản, an nhiên chấp nhận trả nợ, đã vay thì phải trả -> Phát tâm từ-bi-hỷ-xả, cứu độ chúng sinh.
Bố thí: Tinh thần của Bố thí ba-la-mật là nhận thức rõ rằng “Trên đời này không có gì là của mình”, “những gì ta đang có chỉ là đồ cho mượn chứ không phải đồ ban tặng”. Tất cả là do Nhân Duyên mà có nên hãy dùng những gì mà thiên nhiên cho mượn đi chia sẻ cho những chúng sanh kém may mắn.
Trì giới: Giới tướng và Giới tánh (Giới thanh tịnh, bất sát bất ác). Tâm sinh Tướng cho nên hãy chú tâm vào tính chất của Giới (nội dung) thay vì biểu hiện của Giới (bề ngoài). Lợi mình-người-chúng sinh, không hại mình-người-chúng sanh chính là Trì giới.
Tinh tấn: nỗ lực, chuyên cần đoạn trừ Ác tâm và Ác pháp
Nhẫn nại: nhẫn nhịn, kiên nhẫn, nhẫn nhục, kiên trì
Thiền định ba-la-mật -> nhận diện, nắm bắt và làm chủ Tâm
Trí tuệ ba-la-mật/Bát nhã ba-la-mật (Paññā Pāramitā): Pháp học, Tư duy pháp, Thiền quán (Pháp hành)
Lục độ ba-la-mật
Bố thí ba-la-mật (Dāna Pāramitā): Bố thí đáo bỉ ngạn, Thí ba-la-mật, Bố thí độ vô cực. Cũng dịch là bố thí hoàn toàn tuyệt đối, hay hoàn thành Bố thí, trong đó có cả ba loại Tài thí, Pháp thí và, Vô úy thí. Bậc trí là đem lại cả lợi ích Thế gian và lợi ích xuất Xuất thế gian cho cúng sinh (Bố thí ba-la-mật). Bố thí ba-la-mật tức là bố thí Chánh pháp dẫn tới trí tuệ giải thoát
Trì giới ba-la-mật (Śīla pāramitā): hay còn gọi là Giới độ vô cực. Cũng có nghĩa là tuyệt đối, trì giới hoàn toàn, hay hoàn thành trì giới, tức là chỉ cho việc trì giữ luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới, chúng có khả năng đối trị nghiệp ác khiến cho thân và tâm thanh tịnh.
Nhẫn nhục ba-la-mật (Ksānti Pāramitā): hay An nhẫn Ba-la-mật, Nhẫn nhục độ vô cực. Cũng dịch là tuyệt đối, an nhẫn hoàn toàn, hay hoàn thành nhẫn, tức là chỉ cho việc tu tập nhẫn nại oán hại, An nhẫn chịu khổ, xét kỹ pháp nhẫn có khả năng đối trị sân nhuế, khiến tâm trụ vào an ổṇ
Tinh tấn ba-la-mật (Vīrya Pāramitā): hay Tinh tấn độ vô cực. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, hoàn toàn tinh tấn, hoàn thành tinh tấn, trong đó có cả hai tinh tấn thân và tâm. Tinh tấn siệng năng tu tập các thiện pháp, hành đạo, lễ tụng, giảng thuyết, siêng giúp, khai hóa, tức là chỉ cho thân siêng năng tinh cần tu tập bố thí, trì giới thiện pháp và tâm siêng năng hành thiện đạo, tâm tâm liên tục miên mật siêng năng tu tập nhẫn nhục, thiền định trí tuệ. Cho nên tinh tấn cả khả năng về hai mặt thân và tâm để đối trị với căn bệnh lười biếng của ác pháp sinh trưởng các pháp lànḥ.
Thiền định ba-la-mật (Dhyāna Pāramitā): hay Tịnh lự Ba-la-mật, Thiền độ vô cực. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, thiền định hoàn toàn, hay hoàn thành thiền định, tứ là chỉ cho sự tu tập tịnh lự hiện pháp lác trú, tịnh lự đưa đến thần thông, tịnh lự lợi lạc hữu tình, chúng có khả năng đối trị loạn ý, nhiếp giữ ý niệm đối tượng bên trong không cho chạy theo các duyên bên ngoài.
Bát nhã ba-la-mật (Prajñā Pāramitā): người Trung Quốc dịch nghĩa, phiên âm trí tuệ Ba-la-mật, hay Minh độ vô cực. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, trí tuệ hoàn toàn, hoàn thành trí tuệ, có nghĩa được tuệ thế tục, tuệ duyên thắng nghĩa, tuệ duyên hữu tình, có khả năng chấm dứt ngu si, biết rõ thật tướng các pháp hiện hữu và biến dịch.
kkk
Tài thí
Pháp thí
Vô úy thí
Bản năng
Đói ăn, khát uống, giao phối và tự vệ
Bản ngã (Āttā)
Bản ngã = Chấp Ngũ uẩn là Ta
20 Pháp chấp (Uẩn chấp, Thủ uẩn):
SẮC CHẤP
THỌ CHẤP
TƯỞNG CHẤP
HÀNH CHẤP
THỨC CHẤP
Ta là Sắc
Sắc là Ta
Ta ở trong Sắc
Sắc ở trong Ta
Ta là Thọ
Thọ là Ta
Ta ở trong Thọ
Thọ ở trong Ta
Ta là Tưởng
Tưởng là Ta
Ta ở trong Tưởng
Tưởng ở trong Ta
Ta là Hành
Hành là Ta
Ta ở trong Hành
Hành ở trong Ta
Ta là Thức
Thức là Ta
Ta ở trong Thức
Thức ở trong Ta
“Xá Lợi Tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Thọ-Tưởng-Hành-Thức diệc phục như thị.”
Sân vì bất đắc như ý, càng muốn được như ý thì càng sân.
Bản ngã >< Vô ngã
Cho rằng một trong năm Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) là Bản ngã, gọi là Thân kiến (Sakkāya Diṭṭhi) hay Ngã kiến (Atta Diṭṭhi), là “nắm giữ/chấp thủ/bám chấp vào Ngũ uẩn (Pañcupādānakkhandha).
Bát chánh đạo
Bát chánh/thánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chánh ngữ (Sammā Vācā)
Nói năng, phát ngôn theo đúng Chánh pháp
Giới (Sīla)
Chánh nghiệp (Sammā Kammanta)
Hành động theo đúng Chánh pháp
Chánh mạng (Sammā Ājīva)
Sinh sống, mưu sinh theo đúng Chánh pháp
Chánh tinh tấn (Sammā Vāyāma)
Chăm chỉ, chuyên cần, siêng năng theo đúng Chánh pháp
Định (Samādhi)
Chánh niệm (Sammā Sati)
Chú tâm, quán chiếu theo đúng Chánh pháp
Chánh định (Sammā Samādhi)
Thiền định, định và tịnh tâm theo đúng Chánh pháp
Chánh kiến (Sammā Diṭṭhi)
Thấy biết, hay biết theo đúng Chánh pháp
Tuệ (Paññā)
Chánh tư duy (Sammā Saṇkappa)
Suy nghĩ, tư duy theo đúng Chánh pháp
Trong tám đạo chi này thì:
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng thuộc về Giới (Sīla)
Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định thuộc về Định (Samādhi)
Chánh kiến, Chánh tư duy thuộc về Tuệ (Paññā)
Theo thứ tự phát triển, Giới (Sīla), Định (Samādhi) và Tuệ (Paññā) là ba giai đoạn của con đường giác ngộ. Cụ thể, 8 chi của Bát thánh đạo tương ứng với 8 Tâm sở (Cetasika) luôn luôn nằm trong bốn loại Tâm siêu thế (Lokuttara citta) với đối tượng là Niết bàn. 8 Sở hữu tâm (Tâm sở) ấy gồm:
Tuệ quyền (Paññindriya) = Tâm sở trí tuệ (Paññācetasika)?
Tầm (Vitakka)
Ba điều cần kiêng tránh (Virati) -> Xem “Tâm sở giới phần”
Tinh Tấn (Viriya)
Niệm (Sati)
Nhất tâm (Tâm nhất hướng, Ekaggatā).
Tất cả 8 Tâm sở này cho thấy tâm trạng của người có chú nguyện cố gắng thành đạt giải thoát.
Hành giả nào thấm nhuần và sống (ăn, ngủ, thở, làm việc) trong Bát chánh đạo thì sớm hay muộn (không nay thì mai, không kiếp này thì kiếp sau) sẽ trở thành Thánh nhân. Tại sao? Vì hành giả đã gieo đúng nhân (Chánh pháp), gieo đúng Nhân thì sẽ trổ đúng Quả. Vì đây là con đường 8 chi duy nhất dẫn đến Đạo quả, là con đường duy nhất đoạn diệt phiền não, đau khổ, sinh tử luân hồi!
Hiểu BCĐ - Tư duy BCĐ - Thâm nhập BCĐ - Thực hành BCĐ - Chứng đắc BCĐ
BCĐ là con đường duy nhất vì có đủ Giới-Định-Tuệ
“Này các Tỳ kheo,
- Với người Tà kiến, có Tà tư duy.
- Với người Tà tư duy, có Tà ngữ.
- Với người Tà ngữ, có tà Nghiệp.
- Với người Tà nghiệp, có Tà mạng.
- Với người Tà mạng, có Tà tinh tấn.
- Với người Tà tinh tấn, có Tà niệm.
- Với người Tà niệm, có Tà định.
- Với người Tà định, có Tà trí/Tà tuệ.
- Với người Tà trí, có Tà giải thoát.
Như vậy, này các Tỳ kheo, do Tà tánh đưa đến thất bại.”
—
“Và này các Tỳ kheo,
- Với người Chánh kiến, có Chánh tư duy.
- Với người Chánh tư duy, có Chánh ngữ.
- Với người Chánh ngữ, có Chánh nghiệp.
- Với người Chánh nghiệp, có Chánh mạng.
- Với người Chánh mạng, có Chánh tinh tấn.
- Với người Chánh tinh tấn, có Chánh niệm.
- Với người Chánh niệm, có Chánh định.
- Với người Chánh định, có Chánh trí/tuệ.
- Với người Chánh trí, có Chánh giải thoát.
Như vậy, này các Tỳ kheo, do Chánh tánh đưa đến thành công, không đưa đến thất bại.”
Bát định
Xem thêm “Tứ thiền”
Bát nhã (Paññā)
Bát nhã = Trí huệ, Trí tuệ giải thoát, Trí tuệ của các Bậc Thánh, Trí tuệ cao tột
Bát nhã ba-la-mật đa tâm kinh (Bát nhã tâm kinh)
Bát nhã = Sinh diệt theo chu kỳ, sinh diệt trên từng Sát-na, Chân như (như nó/chúng là), xảo trá, hiểm ác của Ngũ uẩn, của Lộ trình tâm…
“Bát-nhã không có Tư-Tưởng (Tưởng-Hành) là sai, Bát-nhã vẫn còn Tư-Tưởng là trật, Bát-nhã có Tư-Tưởng nhưng không dính mắc chấp thủ vào Tư-Tưởng, không cho rằng (nghĩ là, tưởng là, thấy là) Tư-Tưởng là Ta.” - sư Thích Giác Khang
Bát thức tâm vương
Bát thức tâm vương gồm có: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt-na thức, A-lại-da thức.
Bát thức tâm vương (Duy thức học - Bắc tông)
Bát thức Tứ trí
Duy thức tông chuyển Bát thức thành Tứ trí: chuyển Tiền ngũ thức thành 'Thành sở tác trí', chuyển thức thứ sáu thành 'Diệu quan sát trí', chuyển thức thứ bảy thành 'Bình đẳng tánh trí', chuyển thức thứ tám thành 'Đại viên cảnh trí'
THỨC
TRÍ
DIỄN GIẢI
1
Nhãn thức
Thành sở tác trí
2
Nhĩ thức
3
Tỷ thức
4
Thiệt thức
5
Thân thức
6
Ý thức
Diệu quan sát trí
7
Mạt-na
Bình đẳng tánh trí
8
A-lại-da thức
Đại viên cảnh trí
Bất khả tư nghị (Acinteyya)
Bất khả thuyết (không thể nói/mô tả/diễn thuyết/tư duy được). Bất khả tư nghị không thể suy nghĩ/cảm nhận/cảm nghiệm lại được, không thể suy tưởng lại được).
Bất khả thuyết, bất khả tư nghị (không thể nghĩ, bàn) nói về thứ trí tuệ tối thượng mà chỉ có các Bậc Thánh với Tâm siêu thế mới có thể thấy biết, cảm nhận. Người phàm có thể chứng nghiệm được loại trí tuệ này khi tham thiền. Nhưng sau khi xả thiền (trở về với Tâm tại thế) thì phàm phu không thể mô tả và cảm nhận lại được những gì đã thấy biết trong lúc thiền quán/định.
04 điều bất khả tư nghì (Acinteyya)
Bốn điều không thể suy nghĩ hay tư duy đối với kẻ phàm phu. Bốn điều này, khả năng tư duy của phàm phu không thể hiểu thấu đáo, nếu cố gắng suy nghĩ sẽ sanh ra loạn trí.
Phật giới (Buddha Viṣaya): Cảnh giới trí tuệ của Đức Phật, lĩnh vực nhất thiết chủng trí của Đức Phật. Đây là điều bất khả tư nghì đối với phàm phu.
Thiền giới (Jhāna Viṣaya): Năng lực thiền định thần thông. Đây là điều bất khả tư nghì đối với phàm phu.
Nghiệp quả (Kamma Vipāko): Quả dị thục của Nghiệp dị thời. Đây là điều bất khả tư nghì đối với phàm phu.
Vũ trụ quan hay thế giới tư duy (Lokacintā): Các hiện tượng về vũ trụ như tinh tú, mặt trăng, mặt trời, thiên hà, dải ngân hà... tại sao có? Đây là điều bất khả tư nghì đối với phàm phu.
4 điều không thể nghĩ bàn
“Có bốn điều này không thể nghĩ đến được, này các Tỳ kheo, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ. Thế nào là bốn?
Phật giới của các đức Phật (Cảnh giới Phật), này các Tỳ kheo, không thể suy tư mà hiểu ngộ được, nếu nghĩ đến, thì người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
Thiền giới của người khi nhập Thiền, này các Tỳ kheo, không thể nghĩ đến được, nếu suy tư đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
Quả dị thục của nghiệp, này các Tỳ kheo, không thể nghĩ đến được, nếu suy tưởng đến, thì người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
Tâm tư thế giới, này các Tỳ kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
Có 4 điều này không thể nghĩ đến được, này các Tỳ kheo, nếu nghĩ đến, thời có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.”
Bất thiện pháp (Akusalā Dhammā)
Tâm hành (Thân-Khẩu-Ý) liên quan đến Tham (Lobha), Sân (Dosa), Si (Moha), Mạn, Nghi, Ác kiến là Bất thiện pháp. Hành động liên quan đến không tham (Alobha), không sân (Adosa) và Tuệ (Paññā) là Thiện pháp.
Ý (Tâm Sở Thiện, Tâm Sở Bất Thiện) dẫn đầu các pháp (Thiện Pháp, Bất Thiện Pháp)
Tâm thiện hướng vào đối tượng khả kính thì công đức rất lớn. Tâm bất thiện nhắm vào đối tượng khả kính thì quả xấu rất lớn. Tâm bất thiện nhắm vào đối tượng không khả kính thì tội nhẹ đi. Tâm bất thiện nhắm vào đối tượng khả kính thì tội nặng hơn.
Tâm thiện hoàn hảo: 1. không trải qua giai đoạn phân vân do dự; 2. trải qua giai đoạn do dự phân vân nhưng cuối cùng vẫn quyết định làm
Xem thêm: “Thiện”, “Thiện pháp”, “Vô ký pháp”, “Chánh tinh tấn”, Tứ chánh cần”
Bất tịnh
Bất tịnh nghĩa đen là “không sạch, dơ bẩn”; nghĩa mở rộng là chẳng có gì đẹp đẽ, căn cơ, cốt lõi để mà luyến ái, tham đắm.
Cảnh sinh Tâm, Tâm bắt Cảnh:
Nhìn thấy Tịnh tướng, Bất tịnh tướng (Cảnh) thì nhận thức thay đổi. Nhận thức thay đổi thì Tâm từ-bi-hỷ-xả khởi sinh.
Nhìn thấy Đối ngại tướng (Cảnh) thì nhận thức thay đổi. Nhận thức thay đổi thì Tâm phiền não Tham-Sân-Si khởi sinh.
Biên kiến
Biên kiến là chấp vào một bên, chấp tông nọ phái kia, chấp vào pháp tu, nhìn hiện tượng quy bản chất, nhìn Chân đế qua lăng kính Tục đế…
Chấp vào Thường kiến là Biên kiến, chấp vào Đoạn kiến cũng là Biên kiến.
Câu chuyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi” là một ví dụ điển hình về Biên kiến. Người hay ăn nói hồ đồ/hàm hồ (dễ kết luận, quy kết) là người có nhiều Biên kiến. Người hay “bỏ ý bắt lời” (bắt bẻ/chấp vào ngôn từ) là kẻ biên kiến. Người có xu hướng tiểu tiết, thiếu óc tổng quan/toàn cảnh là có thiên hướng Biên kiến. “Lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử” là Biên kiến…
Phàm là con người thì còn Biên kiến, chỉ khi tu đến Bậc thánh cao nhất (cảnh giới trí tuệ Ba-la-mật, trí tuệ vô lậu) thì mới dứt được Biên kiến. Chỉ có bậc A-la-hán (chứng được Tam minh) mới hết Biên kiến. Dứt Biên kiến thì tâm nghi hoặc cũng đoạn theo.
Xem thêm: “Tà kiến”, “Ác kiến”
Biến hành
Tâm sở biến hành gồm có 7 Tâm sở là: Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền, Tác ý
Biến tri
Biến tri sắc, Biến tri thọ, Biến tri tưởng, Biến tri hành, Biến tri thức
Xem thêm “Chánh biến tri”
Biệt tướng
Thấy cô gái có đôi mắt đẹp huyền bí đeo khẩu trang thì mộng mơ liên tưởng tới nàng Kiều tái thế. Tới khi tháo khẩu trang ra thì thấy cặp môi và bộ răng của Thị Nở thì cảm xúc mộng mơ bị thay thế bằng ác mộng… Đôi mắt, bờ môi và hàm răng… là những Biệt tướng.
Biệt tướng của Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc khác nhau là vô số các Trần cảnh. Từ Trần cảnh đó mà cơ chế
Căn-Trần-Thức xúc ra vô lượng các Pháp trần (Thọ, Tưởng, Hành) -> Trùng trùng duyên khởi
Không chú ý tới Tướng riêng (Biệt tướng) mà cũng chẳng chú ý tới Tướng chung (Tổng tướng) -> Xả thọ ->Tưởng và Hành cũng đoạn theo -> Pháp trần không xuất hiện -> Ý thức không sinh khởi do Ý căn không còn đối tượng là Pháp trần nữa -> Căn-Trần-Thức bị triệt tiêu thì Xúc (Tâm sở xúc) không sinh khởi -> Xúc không có thì lấy đâu ra Thọ-Tưởng-Hành (Pháp trần)... -> Chiều đoạn diệt của 12 Nhân Duyên.
Biệt tướng = Tướng riêng
Tổng tướng và Biệt tướng = Tướng chung và Tướng riêng
Bố thí
Bố thí thực (cho con cá), bố thí pháp (cách làm, phương thức, phương pháp, cho cần câu và hướng dẫn cách câu), bố thí ba-la-mật (bố thí Chánh pháp dẫn tới trí tuệ giải thoát).
Nội tài thí
Ngoại tài thí
Bậc trí là đem lại cả lợi ích Thế gian và lợi ích xuất Xuất thế gian cho cúng sinh (Bố thí ba-la-mật).
Tài thí:
Pháp thí: chia sẻ, khuyên bảo, hướng dẫn cách làm giúp…
Vô úy thí: hành vi, xử sự khiến người khác an tâm. Vỗ về an ủi làm cho người khác bớt sợ hãi
Làm phước mà chẳng có tốn tiền của:
Nhan thí: bố thí dung nhan (nụ cười, nét tươi vui)
Ngôn thí: nói những lời ái ngữ, không nói lời thị phi ác ý
Nhãn thí: ánh mắt hiền hòa, nhân từ không hung ác gây hấn, ác ý. Ánh mắt thiện lành giúp người khác an tâm cũng là cách tạo phước báu cho người và cho mình.
Thân thí: bỏ công ra giúp đỡ người khác, hiến tạng khi mình không còn nhu cầu sử dụng. “Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”. Xả thân cũng là sự biểu hiện của không còn Thân kiến.
Tọa thí: nhường chỗ ngồi cho người yếu thế. Không có tư duy giành giật
Cư thí: cho chỗ ở, nơi trú ngụ
Tâm thí: tâm an lành, lương thiện sẽ khiến người khác yên tâm
Bồ đề
Thánh ngôn: “Phiền não tức Bồ đề”, “Chướng ngại tức Bồ đề”
Tục ngôn: “Để cho đời nó dạy”, “Cứ để đời nó vả cho vài phát thì ắt sẽ sáng mắt ra”, “Thất bại là mẹ thành công”
“Phát tâm bồ đề” là khởi tâm tu tập để thoát khỏi Tam giới, vượt thoát khỏi Lục đạo luân hồi (Tánh). Phát tâm bồ đề mà thực hiện nghi thức này nọ, dâng lễ lên chùa, cạo đầu, đặt Pháp danh… (Tướng).
Thất bồ đề phần = Thất giác chi
Xem thêm: “Thất bồ đề phần”, “Tâm bồ đề”
Bồ Đề Đạt Ma
- BĐĐM: “Ngươi đã quỳ trong tuyết 3 ngày 3 đêm rồi. Có điều gì muốn cầu xin?”
- Thần Quang: “Cầu xin Đại sư an tâm cho con!”
- BĐĐM: “Tâm con bất an hay sao?”
- Thần Quang: “Tuy con dốc lòng cầu Đạo nhưng có lúc tâm lại bất an”
- BĐĐM: “Đưa tâm ra đây ta an cho!”
- Thần Quang: “Nhưng con không tìm ra cái tâm bất an của mình”
- BĐĐM: “Ta đã an tâm cho con rồi đó!”
Luận: Càng tìm tâm thì sẽ không bao giờ an tĩnh. Sóng mà đi tìm nước thì mãi mãi không bao giờ gặp, càng tìm càng dậy sóng. Nên sóng không tìm, không cầu thì sẽ không gợn sóng và lắng đọng lại. Mà không nổi sóng nữa thì sẽ sóng sẽ nhận thấy dòng nước và trở về được với bản thể của mình. Nước chính là tâm, là Niết bàn, là Phật tánh; Sóng là Vọng tâm, là phiền não xuất phát từ Tham-Sân-Si-Mạn-Nghi-Tà kiến
Buông xả (buông bỏ)
- Buông bỏ = xả ly = buông xả = thư thái = thư giãn = thảnh thơi = an nhiên = tự tại = bình thản = thong dong = trống rỗng = tan biến -> biểu hiện (thái độ) của Tâm thiền
- Chấp thủ = nắm giữ = bám chấp = cố chấp = bám víu = níu giữ = mắc kẹt = dính chấp = dính mắc = vướng mắc= nghiền = nghiện = ham muốn = luyến ái = ham/đam mê…-> biểu hiện (thái độ) của Vọng tâm, Bản ngã
- Chấp thủ, dính chấp, bám chấp, dính mắc, nghiền, nghiện >< Buông bỏ, xả ly, an nhiên, thư thái, tự tại, thảnh thơi, thư giãn, thong dong
Buông xả = Xả ly, Buông xả, Ly dục
“...Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật/việc/điều/thứ gì trên đời.” -> Những oai nghi (tư thế chuyển động đi, đứng, nằm, ngồi), các tế hành (cử chỉ thô kệch và vi tế trên Thân và trong Thân) này; những tâm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến này; những Ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành) này… tất cả chúng nó đều không phải “là mình”, không phải “là của mình” -> Không phải “là Ta”, là “của Ta” là thái độ buông xả, không chấp trước nữa thì cũng sẽ không nương tựa vào chúng nữa.
Đây chính là tinh thần của Quán viễn ly/xả ly/buông xả, Quán đoạn diệt, Quán từ bỏ; là tinh thần Xuất thế gian, buông bỏ/xả, Vô ngã…
“Bỏ ác làm thiện”, “Buông Ác hành Thiện, xả Thiện đắc Không”
Trong Tứ chánh cần, Đức Phật khuyên chúng ta làm việc thiện và bỏ việc ác. Đức Phật dạy rằng Tâm động là Ác, Tâm tịnh tĩnh là Thiện, khi Tâm đã hoàn toàn thanh tịnh thì xả nốt cả Thiện. Trong Kinh Pháp Hoa, ý này diễn tả rằng Chánh pháp còn phải bỏ, huống chi là Tà pháp. Khi qua sông cần phải có thuyền, tu hành phải nương theo Giáo pháp, nhưng một khi đã sang được Bờ giác thì phải bỏ thuyền, đắc đạo rồi thì buông bỏ toàn bộ các pháp cho dù là Bất thiện hay Thiện.
“Bỏ tất cả để được tất cả, có tất cả để (có nghĩa là) không còn gì hết. Không còn dính mắc chấp thủ (vô tư, chí công) là điều đáng kính nhất trên đời” - sư Thích Giác Khang
Hỏi: Có câu "Cảnh giới cao nhất của đời người là vật chất tối thiểu, quan hệ cực giản, tinh thần phong phú". Ad có thể giúp mình phân tích câu này? Xin cảm ơn
Đáp: Vật chất tối thiểu ở đây không phải là từ bỏ, mà là kiểm soát. Bạn có thể giàu có, nhưng trí tuệ và cảm nhận hạnh phúc của bạn không nên bị ràng buộc bởi vật chất. Một người thực sự tự do không phải là người không sở hữu gì, mà là người không để những gì mình sở hữu kiểm soát tâm trí.
Quan hệ cực giản không có nghĩa là cô lập bản thân, mà là biết giữ những mối quan hệ có giá trị. Không phải có nhiều bạn mới là tốt, mà là có những người bạn thực sự hiểu mình, đồng hành cùng mình trong hành trình phát triển.
Tinh thần phong phú chính là đỉnh cao, khi một người có thể tìm thấy niềm vui từ bên trong, không phụ thuộc vào ngoại cảnh, không bị cảm xúc chi phối, không cần phải tìm kiếm hạnh phúc ở những thứ bên ngoài. Đây chính là "TĨNH".
Buông là bỏ đi những thứ dư thừa và giữ những thứ cần thiết, xả tiếp những thứ sơ cần thiết và chỉ giữ lại những điều tối cần thiết.
“Tôi mang những khối đá, cục đồng, khúc gỗ về rồi lược bỏ những thứ không cần thiết đi rồi phần còn lại là những tác phẩm.” - Nhà điêu khắc Nhật Bản
Tu là buông xả, là bỏ đi những Tham-Sân-Si-Mạn-Nghi-Tà kiến (Phiền não đầy đọa phàm tục) để lộ ra phần cốt lõi và cái giữ lại là cái tâm A-la-hán, Tâm Phật.
Đức Phật cho những thứ khó cho, làm những điều khó làm, nhịn những thứ khó nhịn nên đạt được Quả vị khó đắc.
Phàm phu vô minh thì siêu hơn Đức Phật, làm được cả điều khó lẫn dễ:
- Dễ: giành làm những việc nhàn nhã để đẩy cái khó cho người khác, chén những miếng thơm ngon để lại cho đời những khúc khó nhằn…
- Khó: cho những thứ khó xài, nói những điều khó nghe và đắc quả vị khó ưa :)
6 Pháp vô thượng: Bất kỳ Trần cảnh (6 Trần: Sắc trần, Thanh trần, Hương trần, Vị trần, Xúc trần, Pháp trần) nào xuất hiện trước 6 Căn thì hành giả cũng kiến-văn-giác-tri (nhận biết) bằng Chánh niệm và Tỉnh giác (Trí tuệ), bằng pháp quán Tứ niệm xứ. Tức là chỉ ghi nhận ở mức độ Căn-Trần (Tâm trong sáng) thôi, không bị Thức ô nhiễm chi phối để sự nhận biết đang diễn ra biến thành tưởng/nghĩ/cho là (Tưởng tri, Thức tri). Đây chính là thực hành “nhận biết các pháp như chúng là” (Chân như). Còn ngược lại, nếu để cho Thọ-Tưởng-Hành tự tung tự tác thì gọi là Tác ý - tư tác các pháp bằng Tâm sở tư, bằng cái Thức ô nhiễm (Tư kiến).
Nói theo Vi diệu pháp thì khi Trần cảnh tương giao với Tâm vương (6Căn-6Trần->6Thức) thì sẽ khởi sinh lên các Tâm sở. Lúc này hành giả sẽ trạch pháp rồi xả ly các Tâm sở bất thiện (14) và chỉ giữ lại Tâm sở tịnh hảo (25). Đây chính là buông bỏ theo đúng Chánh pháp.
Lưu ý: Để đi qua cánh rừng chỉ cần phạt cây dọn đường vừa đủ thôi, không cần phá cả cánh rừng đâu, mà sức đâu mà phá sao nổi cả cánh rừng? Vậy nên đừng có đặt tham vọng phá cả khu rừng, dọn được cây (phiền não, tâm sở bất thiện) nào thì hay cây đó. Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình, tùy duyên mà thuận pháp kẻo lại bị tâm tham dẫn dắt!
Buông lung
Phóng dật là một Tâm sở. Đó là cái tâm động loạn, lăng xăng, nhảy nhót, tán loạn tung hoành dọc ngang.
Buông lung là do Tâm (Ý thức) không kiểm soát được Thân và Khẩu nên dẫn tới hành vi buông thả, phóng túng, buông lơi, lơ là, lơ đãng…
Tâm phóng dật (Nhân) thì sẽ tới Buông lung (Quả) -> Tâm phóng dật và buông lung
C
Cao thượng
Hạ liệt >< Cao thượng
Dục hạ liệt (mong muốn thỏa mãn dục vọng, ích kỷ, vị kỷ, ái kỷ) >< Dục cao thượng (ước nguyện, đại đồng, bác ái, vị tha, mong cầu quốc thái dân an)
Cái biết
Cái biết là Tâm hay biết, Tâm nhận biết. Hay biết là chức năng của Tâm
3 Cái biết:
Cái biết đơn thuần và trong sáng của các 5 giác quan (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức).
Cái biết qua kinh nghiệm của Tưởng tri và Thức tri (Ý căn + Pháp trần = Ý thức), là cái biết dựa trên sự huân tập (kiến thức) kết hợp với hồi ức đối chiếu (hồi tưởng).
Cái biết trực quan của trực giác - không qua các giác quan tức là Trí tuệ ba la mật (Thắng tri, Tuệ tri và Liễu tri)
“Bāhiya, ông cần thực tập như sau: trong Cái thấy chỉ là Cái thấy; trong Cái nghe chỉ là Cái nghe; trong Cái cảm thọ chỉ là Cái cảm thọ; trong Cái nhận thức chỉ là Cái nhận thức. Thực tập như thế, Bāhiya, ông sẽ không “vì điều đó” mà có. Khi ông không “vì điều đó” mà có thì ông sẽ không hiện hữu “trong đó”. Và khi ông không hiện hữu “trong đó” thì ông sẽ không hiện hữu ở bên này, không ở bên kia, cũng không ở giữa. Chỉ như thế là đoạn tận khổ đau.”
Thế nào là “trong cái biết chỉ là cái biết”?
- Trong cái nhìn thấy chỉ là nhìn thấy: Nhãn căn + Sắc trần = Nhãn thức trong sáng (không có Nhãn thọ, Sắc tưởng và Nhãn thức huân tập trong quá khứ).
- Trong cái nghe thấy chỉ là nghe thấy: Nhĩ căn + Thanh trần = Nhĩ thức trong sáng (không có Nhĩ thọ, Thanh tưởng và Nhĩ thức huân tập trong quá khứ).
- Trong cái ngửi thấy chỉ là ngửi thấy: Tỷ căn + Hương trần = Tỷ thức trong sáng (không có Tỷ thọ, Hương tưởng và Tỷ thức huân tập trong quá khứ).
- Trong cái nếm thấy chỉ là nếm thấy: Thiệt căn + Vị trần = Thiệt thức trong sáng (không có Thiệt thọ, Vị tưởng và Thiệt thức huân tập trong quá khứ)
- Trong cái cảm giác/xúc (cảm thấy) chỉ là cảm giác/xúc (cảm thấy): Thân căn + Xúc trần = Thân thức trong sáng (không có Thân thọ, Xúc tưởng và Thân thức huân tập trong quá khứ).
- Trong cái nhận thức chỉ là nhận thức: Ý căn + Pháp trần = Ý thức trong sáng (không có Ý thọ, Pháp tưởng và Ý thức huân tập trong quá khứ).
Tham khảo Bá Trượng - Mã Tổ
Xem thêm: “Tánh biết”, “Tưởng tri”, “thức tri”, “Thắng tri”, “Tuệ tri”, “Liễu tri”
Cảm thọ (Vedanà)
Thọ là cảm giác (Thân), cảm tình (Tâm) trải nghiệm trên đối tượng (Lục trần).
5 loại cảm thọ: Lạc (Sukha), Khổ (Dukkha), Hỷ (Somanassa), Ưu (Domanassa) và xả (Upekkhā)
Cảm giác là cảm thọ của Thân (Sắc). Cảm tình là cảm thọ của Tâm (Danh).
Thọ hỷ (Somanassa), Thọ ưu (Domanassa) là các Cảm thọ trong Tâm
Thọ lạc (Sukha), Thọ khổ (Dukkha) là các Cảm thọ trên Thân
Thọ = Tâm sở thọ = Cảm thọ (Vedanà)
Thọ xả = buông xả, xả lý các cảm thọ (Khổ thọ, Lạc thọ) trong Tâm
Xả thọ là một Tâm sở trung tính (không lạc cũng chẳng khổ)
Cảm thọ của Tâm (cảm xúc) khác với cảm thọ của Thân - cảm giác của Ngũ căn (Thị giác, Thính giác, Khứu giác, Vị giác, Xúc giác).
Cảm thọ của Tâm = Thọ uẩn (Lạc thọ, Khổ thọ, Xả thọ)
Xem “Thọ”, “Tâm sở thọ”, “Tâm sở biến hành”
Cảnh (Ārammaṇa)
Trần cảnh, Sắc cảnh và Vô sắc cảnh. Trần cảnh là cảnh trong Cõi dục giới, Sắc cảnh là cảnh trong Cõi sắc giới, Vô sắc cảnh là cảnh trong Cõi vô sắc giới.
Lục trần là 6 Trần cảnh ở cõi Dục giới: Sắc trần, Thanh trần, Hương trần, Vị trần, Xúc trần, Pháp trần.
Sắc cảnh là Cảnh giới thiền (Thiền cảnh) ở cõi Sắc giới: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Ngũ thiền
Vô sắc cảnh là Cảnh giới định (Định cảnh) ở cõi Vô sắc giới: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng-phi phi tưởng xứ.
Cảnh giới tướng thay đổi khi thân hoại mạng chung (Nghiệp quả). Cảnh giới tâm thay đổi ngay lập tức khi nhận thức thay đổi (Tâm thức được chuyển hóa). Cõi giới là nơi tiếp nhận chúng sinh có Tâm và Tướng có cảnh giới tương ưng với nhau (đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu).
“Tức cảnh sinh tình” = “Đối Cảnh sinh Tâm”
“Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền” - “Đối diện với Trần cảnh mà tâm bất động, thì không cần phải hỏi Thiền là gì nữa”
Đối cảnh sinh nhiều Tâm (Tâm vương + nhiều Tâm sở)
Đối cảnh sinh ít Tâm
Đối cảnh mà không có Tâm (Tâm duy tác)
Cảnh sinh Tâm, Tâm bắt Cảnh:
Nhìn thấy Bất tịnh tướng (Cảnh) thì nhận thức thay đổi. Nhận thức thay đổi thì Tâm từ-bi-hỷ-xả khởi sinh.
Nhìn thấy Đối ngại tướng, Tịnh tướng (Cảnh) thì nhận thức thay đổi. Nhận thức thay đổi thì Tâm phiền não Tham-Sân-Si khởi sinh.
Cảnh sinh Tâm. Phản ứng của Tâm chấp ngã (Bản ngã) đối với Cảnh chính là Phiền não.
Căn-Trần-Thức xúc Thọ-Tưởng-Hành -> Ý thức -> Kiến giải -> Phiền não
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền".
Bản dịch:
"Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn nhọc ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.”
“Kiến cảnh vô tâm là thấy cảnh nhưng tâm không động khởi, Cái biết trùm khắp lúc nào cũng thanh tịnh, lặng lẽ sáng biết chiếu soi vạn vật mà không bị dính mắc thì đó là Thiền nên không đặt vấn đề Thiền là gì, Thiền như thế nào nên khỏi phải Thiền nữa. Bởi vì Thiền là Tâm, là Phật tánh, là Như lai, là Pháp giới (3 đường 6 cõi), là Tam thiên Đại thiên thế giới, là tất cả… Nhận ra Cái biết chính là Thiền (thường định, thường biết) nên không phải tự vấn Thiền là gì nữa.” Ông Năm
Cảnh giới
Cảnh giới = Cảnh
Cận định (Upacāra Samādhi)
Sát-na định (Khanika Samādhi) -> Cận định (Upacāra Samādhi) -> Nhập định (Định sâu, Đại định, Chánh định, Sammā Samādhi)
Tâm cận định xuất hiện trước khi Nhập định và sau khi Xuất định. Cận định sau Xuất định an toàn và đáng tin cậy hơn vì để vào được Đại định thì 5 Triền cái đã phải được dẹp bỏ trước đó.
Căn (Mūla)
Căn = căn nguyên, gốc rễ, nguyên nhân, nhân, cội nguồn, căn bản, căn cơ, căn cốt…
Ngũ căn, Lục căn, Căn thức, Căn cơ, Căn cốt
Lục căn thu thúc giới = Thủ hộ lục căn = Tu lục căn
Lục căn: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn, Ý căn
6 căn là công cụ để con người nhận biết vạn pháp (Cảnh, Trần cảnh) trong Pháp giới. 5 Căn đầu thuộc phần Thân (Sắc), căn cuối cùng thuộc phần Tâm (Danh).
Lục căn là chủ thể, Lục trần là đối tượng
Lục trần còn được gọi là 6 ngoại xứ, Lục căn còn được gọi là 6 nội xứ
Đối tượng của 6 căn là vô số Trần cảnh. Căn và Trần duyên với nhau sinh ra vô số Thức (Tâm vương và Tâm sở). Do có vô số Tâm nên Tâm tầm cầu nhảy nhót hết cảnh này sang cảnh khác để thỏa mãn Dục trần (Sắc dục, Thanh dục, Hương dục, Vị dục, Xúc dục, Pháp dục). Tâm nhảy nhót lăng xăng không ngừng nghỉ là Tâm phóng dật. Tâm phóng dật là một trong hai Tâm si. Tâm phóng dật cũng là Tâm hành tạo tác nên Phiền não và Nghiệp gọi là Hành khổ (1 trong 3 loại Khổ).
Như vậy sống trong vô số tâm là đồng nghĩa với vô số Phiền não. Sống với vô số Phiền não là sống trong “bể khổ” và vô minh.
-> Định tâm trên một đề mục (1 Trần cảnh duy nhất) nên chỉ còn một tâm duy nhất là Nhất tâm (Tâm Định Xả Thọ) là phương pháp đối trị khổ đau và vô minh.
Phù trần căn = Vật chất
Tịnh sắc căn = Tinh thần, tương ưng với Thức tri
Thắng nghĩa căn
Đệ nhất thắng nghĩa căn
Xem thêm: “Lục trần”, “Lục thức”, “Căn-Trần-Thức”, “Thập nhị Xứ”, “Thập bát Giới”, “Tịnh sắc căn” (Thắng nghĩa căn), “Phù trần căn”
Căn thiện (Mūlakusala)
Xem: “Thiện căn”
Căn-Trần-Thức
Mūla
Xem “Căn”, “Trần”, “Thức”, “Thập nhị Xứ”, “Thập bát Giới”
“Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền” - “Đối diện với Trần cảnh mà tâm bất động, thì không cần phải hỏi Thiền là gì nữa”
Ādittapariyāya Sutta - Kinh về ngọn lửa (Phiền não)
Suy luận: Lục căn là nhiên liệu, Lục trần là nguyên liệu (mồi lửa), Thức (dính mắc, chấp trước, chấp thủ, Dục ái, Tham luyến…) là oxygen. 3 thành tố này xúc với nhau duyên hợp để khởi bùng lên (Xúc) ngọn lửa Phiền não (Thọ-Tưởng-Hành) trong Thân và Tâm.
Thiền là để ngắt Tâm sở xúc, ly tách Căn-Trần-Thức không cho chúng hợp lại để duyên lên (Xúc) ngọn lửa Phiền não Thọ-Tưởng-Hành.
Thiền định là để lần lượt làm biến mất Căn, Trần và Thức (tạm thời) -> không còn Phiền não -> Thân và Tâm thanh tịnh, tĩnh lặng.
Như vậy, người bị hôn mê sâu là Định bị động. Người tập Thiền định là “chủ động hôn mê” (chủ động làm cho Căn, Trần, Thức tạm thời biến mất). Bị động là Tâm vẫn bị cuốn trong dòng lũ tâm thức, còn chủ động là đứng ngoài dòng chảy tâm thức và lặng lẽ ngắm nhìn các hoạt cảnh đang diễn biến.
Căn-Trần-Thức (Vật lý-Sinh lý-Tâm lý)
Lục trần - đối tượng của 6 Căn (Nội xứ) là vật lý
Lục căn - chủ thể tương tác với 6 Trần là sinh lý
Căn (sinh lý) tương giao với Trần (vật lý) xúc lên Thức (Tâm lý, phản ứng tâm, Tâm hay biết, Thức biết)
Căn-Trần-Thức (tập khởi) >< Thức-Trần-Căn (đoạn diệt) -> VinhPN
Căn-Trần-Thức xúc Thọ-Tưởng-Hành -> Ý thức -> Kiến giải -> Phiền não
Cảnh sinh Tâm. Phản ứng của Tâm chấp ngã (Bản ngã) đối với Cảnh chính là Phiền não
Kinh 66
1
2
3
4
5
6
6 Căn
6 Trần
6 Thức
6 Xúc
6 Thọ
6 Ái
1
Nhãn căn
Sắc trần
Nhãn thức
Nhãn xúc
Nhãn thọ
Nhãn ái
2
Nhĩ căn
Thanh trần
Nhĩ thức
Nhĩ xúc
Nhĩ thọ
Nhĩ ái
3
Tỷ căn
Hương trần
Tỷ thức
Tỷ xúc
Tỷ thọ
Tỷ ái
4
Thiệt căn
Vị trần
Thiệt thức
Thiệt xúc
Thiệt thọ
Thiệt ái
5
Thân căn
Xúc trần
Thân thức
Thân xúc
Thân thọ
Thân ái
6
Ý căn
Pháp trần
Ý thức
Ý xúc
Ý thọ
Ý ái
6 Nội xứ
6 Ngoại xứ
6 Thức thân
6 Xúc thân
6 Thọ thân
6 Ái thân
6 Pháp vô thượng: Bất kỳ Trần cảnh (6 Trần: Sắc trần, Thanh trần, Hương trần, Vị trần, Xúc trần, Pháp trần) nào xuất hiện trước 6 Căn thì hành giả cũng kiến-văn-giác-tri (nhận biết) bằng Chánh niệm và Tỉnh giác (Trí tuệ), bằng pháp quán Tứ niệm xứ. Tức là chỉ ghi nhận ở mức độ Căn-Trần (Tâm trong sáng) thôi, không bị Thức ô nhiễm chi phối để sự nhận biết đang diễn ra biến thành tưởng/nghĩ/cho là (Tưởng tri, Thức tri). Đây chính là thực hành “nhận biết các pháp như chúng là” (Chân như). Còn ngược lại, nếu để cho Thọ-Tưởng-Hành tự tung tự tác thì gọi là Tác ý - tư tác các pháp bằng Tâm sở tư, bằng cái Thức ô nhiễm (Tư kiến).
Nói theo Vi diệu pháp thì khi Trần cảnh tương giao với Tâm vương (6Căn-6Trần->6Thức) thì sẽ khởi sinh lên các Tâm sở. Lúc này hành giả sẽ trạch pháp rồi xả ly các Tâm sở bất thiện (14) và chỉ giữ lại Tâm sở tịnh hảo (25). Đây chính là buông bỏ theo đúng Chánh pháp.
Lưu ý: Để đi qua cánh rừng chỉ cần phạt cây dọn đường vừa đủ thôi, không cần phá cả cánh rừng đâu, mà sức đâu mà phá sao nổi cả cánh rừng? Vậy nên đừng có đặt tham vọng phá cả khu rừng, dọn được cây (phiền não, tâm sở bất thiện) nào thì hay cây đó. Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình, tùy duyên mà thuận pháp kẻo lại bị tâm tham dẫn dắt!
Chánh
Chánh = Chính
Chánh biến tri (Pariññeyya)
Chánh biến tri là thấy biết tất cả các pháp, là cái biết cùng khắp không gian thời gian chẳng có năng sở đối đãi, tức là cái biết bản thể Phật tánh, khắp thời gian thì chẳng sanh diệt, gọi là Niết Bàn; khắp không gian thì chẳng có quá khứ và vị lai, gọi là Như Lai.
Xem thêm “Biến tri”
Chánh đẳng chánh giác
Đức Phật là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Chánh Giác (Chánh đẳng giác). Chánh đẳng giác có nghĩa là bình đẳng giác ngộ tất cả các pháp (Sắc pháp và Danh pháp trong Pháp giới đều bình đẳng):
Từ con kiến, hòn đá, cây cối, động vật đến sơn hà đại địa, hành tinh ngôi sao… tất cả trong cái thấy biết của Ngài, đều không ngoài Tứ đại (Thủy, Địa, Hỏa, Phong) cho nên không có sự phân biệt cái này to hay nhỏ hơn, cái này giá trị, quan trọng hơn cái kia.
Thánh trí của Ngài nhận biết con người (hay chúng sinh hữu tình) bằng Ngũ uẩn chứ không còn phân biệt người này xấu, người kia đẹp (hay dở, thiện ác, cao thấp, sang hèn, giàu nghèo, khôn ngu…). Tất cả chúng sinh hữu tình đều chỉ là đều sự duyên hợp giữa Sắc pháp và Danh pháp, trong Danh pháp. Thế giới của muôn loài đều chỉ là sự kết hợp của Ngũ uẩn (Sắc-Thọ-Tưởng-Hành-Thức, Lục căn, Phiền não, Chấp thủ, Nghiệp, các Uẩn, các Xứ, các Giới, Lậu hoặc, Kiết sử, Triền cái…)
“Này Xá Lợi Tử, Tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên trong Cái không đó, nó không có Sắc, không Thọ, Tưởng, Hành, Thức”. - Kinh Bát Nhã
TƯƠNG TÁC/HỖ/TRỢ/PHÙNG - QUAN HỆ (TÙ)
TƯƠNG TÁC/LIÊN/GIAO - TƯƠNG HÒA (TU)
Dục ái chi phối, có điều kiện, bị giới hạn trong khuôn khổ (tự do tương đối, hạn hẹp)
Ly dục hoàn toàn, vô điều kiện, không giới hạn (tự do tuyệt đối)
- Yêu thương có điều kiện: yêu thương người, đối xử tốt với người nhưng cũng muốn người khác yêu thương mình, đối xử tốt với mình (Tham ái), “có qua có lại mới toại lòng nhau”, “ông thò chân gà bà thò chai rượu”
- Vị kỷ:
- Chủ nghĩa cục bộ (vùng miền, đội nhóm, bầy đàn): “ăn cây nào rào cây ấy”, “ăn cây táo rào cây sung”
- Yêu thương vô điều kiện (Từ bi):
- Bác ái:
- Vị tha:
- Chủ nghĩa đại đồng:
Lục pháp hòa kính (Đức Phật): Thân hòa đồng trú, Khẩu hòa vô tranh, Ý hòa đồng duyệt, Giới hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giải, Lợi hòa đồng quân
-> Gia đình hạnh phúc - Quốc gia hùng cường - Thế giới hòa bình - Chúng sinh an lạc.
- Đức Phật: “...Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật/việc/điều/thứ gì trên đời.” -> tôi chẳng có điều kiện gì với Anh/Chị cả!
- “Pháp tu Tứ đại chủng”: như đất, như nước, như lửa, như gió. Trái táo đâu có kén miệng người hay mồm khỉ ăn? Nước đâu có bỉ bôi, than thân trách phận khi trở thành nước bồn cầu hay nước khoáng tinh khiết? Làn gió đâu chọn nơi sạch hay nơi bẩn để lùa qua? Ngọn lửa đâu có buồn phiền đau khổ khi phải thắp sáng trong túp lều tranh thay vì trong cung điện? Chỉ có Tâm con người mới có điều kiện, có phân biệt đối đãi nhị nguyên chứ Tứ đại không hề có!
- Câu chuyện về sữa và dầu (Na-tiên tỳ kheo): sữa thì hòa tan vào được với tất cả, còn dầu thì bắt mọi chất lỏng phải đồng chất như nó mới hòa tan, hòa hợp được.
Pháp tu Tứ đại chủng = Pháp tu chánh đẳng -> chẳng có điều kiện, hoàn cảnh nào khiến ta đau khổ, khiến ta khởi tâm phiền não, sân ưu…
Chánh định (Sammā Samādhi)
Tà định
Tà định là sự chú tâm vào một hành động bất thiện tạo bởi thân và khẩu. Hoàn thành một hành động bất thiện cũng cần sự chú tâm. Chẳng hạn như: bạn có ý định nói dối, ý định này chỉ thành tựu khi tâm an trụ trên những chữ được phát biểu một cách gian trá. Nếu tâm không an trụ trên những chữ được phát biểu, thì bạn sẽ phát biểu sự thật ngược lại với ý định gian trá. Tại tòa án, nhiều khi sự thật được khám phá khi người khai gian bị điều tra viên chất vấn làm cho tâm họ bị rối loạn không thể tập trung vào sự cố ý nói dối nên vô tình tiết lộ ra sự thật.
Như vậy, rõ ràng trong khi làm điều bất thiện cũng phải cần có sự định tâm. Thật vậy, sức mạnh của Tà định đóng vai trò lớn lao trong việc mưu tính những việc bất thiện như: âm mưu một cuộc thảm sát, dàn dựng một vụ cướp, hay sản xuất vũ khí độc hại…
Chánh định
Chánh định là sự định tâm trên những hành động thiện lành như bố thí, trì giới, buông xả những Bất thiện pháp… Trong việc bố thí, nếu muốn đạt được hiệu quả tốt đẹp, cũng đòi hỏi phải có một tâm định đủ mạnh để đạt được hiệu quả. Khi đảnh lễ chư Tăng hoặc phục vụ người khác, ta cũng phải cần có Tâm định. Tâm định có tầm quan trọng lớn lao trong các hoạt động tinh thần như giảng dạy Phật Pháp hoặc nghe Giáo Pháp, nhất là trong lãnh vực thực hành như quán sát hơi thở ra vào. Khi theo dõi hơi thở, tâm phải an trụ vào một đối tượng độc nhất nên sự định tâm càng đóng vai trò thiết yếu hơn nữa. Tâm định liên hệ đến Tâm thiện là Chánh định.
Trích từ pháp thoại về Kinh Hemavata - Cố đại lão Mahasi Sayadaw
Chia sẻ bởi: Thực Hành Giáo Pháp
“Nếu xâu chuỗi giữa Kinh trạm xe, lời dạy Chánh định của ngài Mahasi, Ajahn Chah hay Thích Giác Khang thì sẽ thấy chỉnh thể của pháp Chánh định. Chánh định là phương tiện, Thanh tịnh đạo là đích đến và đích đến này sẽ trải qua các trạm xe. Trạm xe đầu thì nên đi xe Chánh định Mahasi. Trạm thứ 2 thì đi xe Chánh định Ajahn Chah/Thích Giác Khang
Vậy nên nếu chấp vào xe Mahasi thì sai, chấp vào xe Ajahn Chah hay Thích Giác Khang thì trật, chấp vào cả 2 xe này cũng tào lao, còn không chấp vào bất kỳ xe nào thì quá nguy hiểm!. Người có trí diệu dụng sẽ biết chặng nào thì đi xe đó, không khăng khăng đợi phải có xe này thì mới đi. Nếu chấp vào một pháp lẻ ta sẽ bị kẹt vào đó và không nhìn ra bức tranh rộng lớn hơn (pháp chỉnh thể hơn).
Dĩ bất biến ứng vạn biến. Xác định Thanh tịnh đạo là bất biến thì ngựa trắng hay ngựa đen không quan trọng, quan trọng là lựa ra con ngựa phù hợp. Những con ngựa nào đưa ta tới trạng thái thanh tịnh nhanh và êm nhất là ta leo lên cưỡi.” - cách hiểu của VinhPN
Chánh tinh tấn phối hợp với Chánh niệm tạo nên Chánh định - tức là Tâm an trụ vào một điểm duy nhất (Nhất tâm). Tâm an trụ giống như mặt kiếng được lau chùi sáng bóng, không bị lu mờ, méo mó. Nhờ vậy mà vạn vật đều được phản ánh rõ ràng trung thực, không bị méo mó, lệch lạc.
Chánh tinh tấn và Chánh niệm dẫn đến Chánh định - tức là nhiếp tâm an trụ vào một điểm (đề mục) duy nhất. Chánh định là yếu tố rất cần thiết giúp quan sát sự vật để thấy rõ Thực tướng của vạn pháp.
Chánh định và Tà định là 2 trạng thái tâm khác biệt về mục đích và kết quả. Chánh định là sự tập trung đúng đắn trên cơ sở là Con đường giác ngộ giải thoát, đem sự an lạc và Trí tuệ sáng suốt. Tà định là sự tập trung nhưng không dựa trên Chánh kiến mà chỉ nhằm thỏa mãn Bản ngã (thỏa tâm Dục ái, Tham-Sân-Si) nên không dẫn tới Tâm thanh tịnh và giải thoát.
Chánh định là kiên quyết, quả quyết, nhất quyết (Nhất tâm) hướng về Chánh kiến, Chánh quả
Quả của Chánh định là nhìn thấy hai mặt Thiện và Ác trong "Ta". Người thứ nhất là Chánh niệm (thiện lành), người thứ hai là Vọng niệm (ác tà). Còn nhân vật thứ ba tên là Trung đạo - lặng lẽ quan sát/xem Thiện-Ác diễn xuất trong hai bộ phim cuộc đời. Hai bộ phim cuộc đời do hai diễn viên Thiện-Ác sẽ dẫn tới kết cục (Quả) khác nhau để Người quan sát chỉ……………… đơn giản là xem vậy thôi!
Tóm lại là không yêu (Tham) cũng chẳng ghét (Sân). Còn yêu ghét là sẽ còn Si (vô minh) rồi tập khởi lên Luân hồi. Còn hết yêu (thích) ghét (không thích) thì sẽ hết Si.
Đời quẳng cho ta cái gì thì ta cũng không nảy tâm yêu ghét là ok rồi. Đời nói ta sai hay đúng thì ta ngay lập tức quay vào tâm xem có tâm yêu/ghét khởi nên hay không. Đây chính là tu đúng.
Tâm không lay động trước đúng-sai, phải-trái, hay-dở, thiện-ác, nên-không nên... chính là Chánh định.
Chánh kiến (Sammā Diṭṭhi)
Chánh kiến là viết tắt của Chánh tri kiến hay Chánh kiến-văn-giác-tri. Kiến (thấy), Văn (nghe), Giác (cảm giác của Nhĩ căn/, Tỷ căn/Khứu giác và Thiệt căn/Vị giác), Tri (hay biết của Ý thức). Vậy Chánh kiến là sự nhận biết một cách đúng đắn để thấy được chân lý (Thực tướng của vạn vật và sự vận hành của quy luật vũ trụ).
Chánh kiến đề cập đến sự hiểu biết Thực tướng của chính mình (ta là ai, Pháp duyên sinh duyên khởi, Ngũ uẩn, Tánh biết, Tướng biết…), về quy luật của vũ trụ và sự vận hành của tự nhiên (vạn vật). Chánh kiến sẽ dẫn đến Chánh tư duy.
3 bài kinh đầu tiên Đức Phật giảng cho các đệ tử là Kinh Trung Đạo, Kinh Chuyển Pháp Luân (Tứ diệu đế) và Kinh Vô Ngã Tướng. Ý tưởng xuyên suốt trong 3 bài kinh đầu tiên là từ “KHỔ”. “Này các Tỳ kheo, đây là Chân Lý Cao Thượng về Sự Khổ…”. Chúng sinh rõ thấy rõ biết rằng cuộc sống trong thế gian này là khổ (“Đời là bể khổ”), biết rằng ta đang sống, đang bơi trong bể khổ này ở mọi thời khắc thì đó là Chánh tri kiến đầu tiên.
Như vậy, Chánh tri kiến là thấu hiểu Tứ diệu đế, là rõ thấy rõ biết về “nỗi thống khổ” của chúng sinh:
Rõ thấy rõ biết “Đời là bể khổ” (Khổ đế)
Rõ thấy rõ biết “Nguyên nhân của khổ” (Tập đế). Các khối đau khổ (Ngũ uẩn) tập khởi từ đâu và như thế nào -> Pháp duyên khởi (12 nhân duyên) theo chiều thuận.
Rõ thấy rõ biết “Sự đoạn diệt của khổ” (Diệt đế). Tác nhân nào giúp đoạn trừ đau khổ (phá trừ Ngũ uẩn) và cơ chế hoạt động ra sao -> Pháp duyên khởi (12 nhân duyên) theo chiều nghịch.
Rõ thấy rõ biết “Con đường diệt khổ” (Đạo đế). Các Pháp tu (Chánh pháp) nào giúp đoạn trừ khổ đau/phiền não, phá tan Ngũ uẩn một cách hiệu nghiệm nhất?
Chánh kiến là hiểu biết đúng đắn, tức am hiểu tận tường (liễu tri, Văn-Tư) về Tứ Thánh Đế (Tứ Diệu Đế). Đế là Chân lý, là Sự thật, là Thực tướng trong Tam giới. Sự thật đó là gì? Đó là “KHỔ”. Mục đích của việc tu tập thực chất là để có Thánh trí về Tứ diệu đế, về sự thực Khổ-Vô-Thường-Vô ngã của vạn pháp.
Nói một cách khác, Chánh Kiến là thấu triệt Thực tướng của bản thân mình. Phẩm Rohitassa Sutta trong Kinh Tăng Chi Bộ dạy rằng tất cả chân lý trong vũ trụ đều nằm vỏn vẹn trong tấm thân một trượng này. Chánh Kiến là yếu tố tất yếu trong Phật Giáo để thành tựu mục tiêu cứu cánh.
Nếu chưa rõ thấy rõ biết được “Đời là bể khổ” thông qua Trí tuệ trực nhận trong Thiền định hay Thiền quán thì hành giả hãy Như lý tác ý về Ngũ lực (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ).
Chánh tri kiến là rõ thấy rõ biết “Đời là bể khổ” như Đức Phật đã dạy. Phàm phu (Tâm tại thế) còn nhiều vô minh nên chỉ có thể hiểu một cách nông cạn về chữ Khổ (Dukkha). Chỉ các bậc Thánh nhân (Tâm siêu thế), cụ thể là bậc A-la-hán thì mới có Trí tuệ trực nhận rốt ráo về thực trạng khổ đau của chúng sinh.
Thế nào là người có Chánh tri kiến?
Tam tuệ học: Văn - Tư - Tu (Pháp học)
Tam vô lậu học: Giới - Định - Tuệ (Pháp hành)
Hành giả có Chánh tri kiến thức là đã chứng đắc đạo quả Tu đà hoàn. Chánh tri kiến là Thánh trí về Ngũ uẩn, là rõ thấy rõ biết về Tứ diệu đế (Tứ thánh trí) ở thể Chân đế -> Trí tuệ xuất thế gian.
Tà kiến (Micchā Diṭṭhi) >< Chánh kiến (Sammā Diṭṭhi)
Chánh kiến (Sammā Diṭṭhi) phát sinh do Nhân Duyên nào?
Trong Chi bộ kinh, phần pháp 2 chi, Đức Phật thuyết dạy Chánh kiến (Sammā Diṭṭhi) phát sinh do 2 Nhân Duyên:
“Này chư Tỳ kheo! Do 2 Nhân Duyên làm phát sinh Chánh kiến. Hai Nhân Duyên ấy là gì?
1. Parato ca ghoso: Lắng nghe Chánh pháp từ các bậc thiện trí có Chánh kiến.
2. Như lý tác ý (Yoniso ca manasikāro): Tâm có trí tuệ (Phật pháp, Chân lý) soi sáng nên nhận biết đúng đúng đắn (như lý) 4 trạng thái của các Pháp hữu vi.
“Này chư Tỳ kheo! Do 2 Nhân Duyên ấy làm phát sinh Chánh kiến.
Tâm có trí tuệ nên nhận biết đúng đắn (Như lý tác ý) 4 trạng thái của tất cả Sắc pháp và Danh pháp trong Tam giới như chúng là:
Sắc pháp và Danh pháp đều có trạng thái Vô thường (Anicca) thì trí tuệ biết đúng là Vô thường (Anicca).
Sắc pháp và Danh pháp đều có trạng thái Khổ (Dukkha) thì trí tuệ biết đúng là Khổ (Dukkha).
Sắc pháp và Danh pháp đều có trạng thái Vô ngã (Anattā) thì trí tuệ biết đúng là Vô ngã (Anattā)
Sắc pháp và Danh pháp đều có trạng thái Bất tịnh (Asubha) thì trí tuệ biết đúng là Bất tịnh (Asubha).
Tâm trí tuệ nhận biết đúng đắn (như lý) 4 trạng thái của tất cả Sắc pháp và Danh pháp trong Tam giới đều Vô thường, Khổ, Vô ngã và Bất tịnh. Tri kiến đúng đắn (Như lý tác ý) này làm Nhân Duyên khởi sinh nên Chánh kiến (Sammā Diṭṭhi).”
Chánh kiến có 5 loại:
1. Chánh kiến sở nghiệp (Kammassakatā Sammā Diṭṭhi): là Trí tuệ rõ thấy rõ biết rằng Thiện nghiệp và Ác nghiệp do mình đã tạo tác là của riêng mình (Biệt nghiệp).
2. Chánh kiến Thiền tuệ (Vipassanā Sammā Diṭṭhi): là Trí tuệ có được nhờ Thiền tuệ trong Tam giới (Trí tuệ-Thiền tuệ-Tam giới), là Tuệ rõ thấy rõ biết Thật tánh Sắc pháp và Danh pháp là Vô ngã; rõ thấy rõ biết sự sinh diệt của Sắc pháp và Danh pháp; rõ thấy rõ biết 3 đặc tính của các Sắc pháp và Danh pháp trong Tam giới (Pháp hữu vi) vốn là Vô thường, Khổ, Vô ngã.
3. Chánh kiến Thánh đạo tuệ (Magga Sammā Diṭṭhi): là Trí tuệ có được nhờ Thiền tuệ trong Siêu tam giới (Trí tuệ-Thiền tuệ-Siêu tam giới), chứng đắc 4 Thánh đạo tuệ có đối tượng là Niết bàn siêu tam giới.
4. Chánh kiến Thánh quả tuệ (Phala Sammā Diṭṭhi): là Trí tuệ có được nhờ Thiền tuệ trong Siêu tam giới (Trí tuệ-Thiền tuệ-Siêu tam giới), chứng đắc 4 Thánh quả tuệ có đối tượng là Niết bàn siêu tam giới.
5. Chánh kiến quán triệt (Paccavekkhaṇā Sammā Diṭṭhi): là Trí tuệ có được Thiền tuệ-Quán triệt Thánh đạo, Thánh quả, chứng đắc Niết bàn; quán triệt được Phiền não nào đã tận diệt và Phiền não chưa diệt tận được.
Phước thiện Chánh kiến là quan trọng nhất trong 10 Phước thiện (Puññakriyāvatthu), cụ thể là Chánh kiến sở nghiệp (Kamma Sakatā Sammā Diṭṭhi).
Chánh kiến hiệp thế - Chánh kiến siêu thế (Chánh tri kiến)
Chánh định là trạng thái tập trung sâu sắc của tâm trí, là sự tập trung không bị lay động trước sự quấy nhiễu của những cảm giác/xúc bất chợt (Thọ), những ý nghĩ vẩn vơ (Hành) có nguồn gốc từ Tâm tầm dục (Dục ái). Chánh định giúp tâm an trú trên một đối tượng duy nhất, giúp tâm trở nên phẳng lặng như mặt hồ, phản chiếu môt cách trong sáng Thực tướng của các pháp đang diễn ra (sáng suốt, không mơ hồ). Bên cạnh tấm bản đồ Chánh kiến, Chánh định là ngọn đèn soi sáng con đường giác ngộ đi đến đích giải thoát.
Chánh định thực hành một cách đơn giản là chú tâm vào từng nhịp hơi thở vào-ra đang diễn ra, lắng nghe những tiếng nói bên trong và buông xả những Vọng tưởng phiền toái để cảm nhận được sự an lạc mà Chánh định đem lại.
Thấy Tâm cứ thấy thế thôi.
Bỏ Tâm tìm Phật luống công tu hành.
—
Tâm không thấy Phật làm sao thấy
Tâm muốn thấy chớ tầm trên giấy
Phải tìm trong lòng mới thấy ra
Xem thêm: “Kiến”, “Kiến giải”, “Tà kiến”, “Quan kiến”, “Biên kiến”, “Thân kiến”, “Ác kiến”
Chánh kiến sở nghiệp (Kamma Sakatā Sammā Diṭṭhi)
Chánh kiến sở nghiệp (Kamma Sakatā Sammā Diṭṭhi) là Chánh kiến hiểu biết đúng đắn về Nghiệp là của riêng mình, là Biệt nghiệp kéo theo đủ các loại nghiệp khác (Nghiệp căn, Nghiệp thức, Cộng nghiệp, Nghiệp chướng, Nghiệp thiện, Nghiệp ác…); là Phước thiện quan trọng nhất trong 10 Phước thiện -> Tu tâm, Thu Thân-Khẩu-Ý, Tà kiến -> Chánh kiến… để không tạo tác nên Nghiệp thiện/ác (dừng nghiệp) -> giải thoát
Xem thêm: “Thiện”, “Thiện pháp”, “Tâm thiện”, “Nghiệp thiện”, “Phước thiện”, “Tà kiến”, “Chánh kiến”
Chánh mạng (Sammā Ājīva)
Chánh kiến, Chánh tư duy cũng dẫn đến Chánh mạng, hành nghề sinh sống một cách chân chính. Giữ Thân, Khẩu, Ý trong sạch, hành giả cố gắng sống đời trong sạch, lánh xa năm nghề nuôi mạng khả dĩ tạo Nghiệp xấu là buôn bán khí giới (sattha-vāṇijja), buôn bán người (satta-vāṇijja), nuôi thú vật để bán cho người ta ăn thịt hoặc làm nghề đồ tể (maṃsa-vāṇijja), bán vật thực có chất say (majja-vāṇijja), và buôn bán độc dược (visavāṇijja). Đối với hàng Xuất Gia, đạo đức giả dối không phải là Chánh Mạng. Một cách chính xác, về phương diện Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng là ba điều cần tránh, không hàm ý những Phẩm Hạnh đối nghịch.
Chánh nghiệp (Sammā Kammanta)
Chánh tư duy cũng dẫn đến Chánh nghiệp (hành động, hành vi chân chính nhằm tạo Thiện nghiệp). Hành động chân chính là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Nguyên nhân của Tâm luyến ái (Tâm dục ái), thù hận, và tánh hung bạo độc ác là Tham, Sân và Si. Hành giả đã tẩy sạch Tham-Sân-Si, và giữ tâm hoàn toàn thanh tịnh thì những xu hướng xấu xa không khởi sanh lên được. Tâm thanh ý tịnh thì đời sống cũng được trong sạch. Người không Tham, không Sân, không Si, ắt cũng không thể sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
Chánh ngữ (Sammā Vācā)
Chánh tư duy dẫn đến Chánh ngữ (lời nói chân chính, đúng mực, đúng đắn) - chi thứ ba của Bát chánh đạo. Chánh ngữ là không nói dối, không nói đâm thọc, xúc xiểm làm cho người này phiền giận người kia, không nói lời thô bỉ và nói nhảm nhí.
Người đã tận diệt tham vọng tất nhiên không thể có lời nói giả dối, phỉ báng, thô bỉ vì một mục tiêu ích kỷ nào, mà luôn chân thành, trung tín, luôn tìm cái đẹp cái tốt nơi người khác hơn là lừa dối, vu oan sỉ nhục, chia rẽ những người bạn đồng cảnh ngộ với mình. Một nhân vật hòa nhã và đượm nhuần Tâm từ không thể có lời nói thô lỗ cộc cằn để làm suy giảm giá trị mình và gây tổn hại đến người khác. Lời lẽ của người giàu lòng Từ Ái Bi Mẫn không những chân thật dịu dàng mà còn hữu ích và luôn đem lợi lộc lại cho người khác.
“Lợi mình - Lợi người - Lợi chúng sanh”
Chánh niệm (Sammā Sāti)
Niệm là chú tâm, để tâm, chuyên tâm. Chánh niệm là tâm niệm chân chính, chú tâm đúng đắn.
Chánh niệm là Tâm hướng vào bên trong (tâm hướng nội, tâm niệm) để thanh lọc tâm cho bớt nhiễm ô và trở nên thanh tịnh hơn.
Chánh niệm là Tứ niệm xứ, là chú tâm (Tâm niệm) vào những Xứ (nơi) chân chính. Nơi chân chính (Xứ) là Thân, Thọ, Tâm, Pháp (Thân-Tâm, Danh-Sắc). Chánh niệm là “hay biết” những gì đang diễn ra trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp (nội/trên Thân và Tâm)
Chánh niệm tức là Tâm đang/luôn trọn vẹn với thực tại. Trọn vẹn với thực tại là cụ thể với cái gì? Thực tại chính là Tứ niệm xứ (Thân, Thọ, Tâm, Pháp). An trú trong Thực tại tức là Tâm luôn trọn vẹn trong Thập nhị Xứ (12 Xứ), Thập bát giới (18 Giới).
Chánh niệm là chỉ có niệm trong sáng (Thức trong sáng)
"Không hồi tưởng quá khứ, đừng vọng tưởng tương lai, an trú trong các pháp hiện tại, Tuệ quán chính là đây".
Cần phải nhấn mạnh 2 chữ THỰC TẠI vì chỉ Thực tại hiện tiền mới là thật, còn hối tiếc quá khứ và lo lắng vị lai chỉ là những ảo tưởng do Tâm dựng lên.
Một vị Chư thiên hỏi:
“Những người thường lai vãng chốn rừng sâu.
Những bậc Thánh nhân, có đời sống đạo hạnh.
Mỗi ngày chỉ ăn một lần.
Tại sao các vị ấy trông có vẻ tự tại?”
Đức Phật đáp:
“Những vị ấy không than van sầu muộn những chuyện đã qua.
Không nóng nảy khao khát những gì chưa đến.
Mà chỉ tập trung tâm trí vào hiện tại.
Do đó các vị ấy tự tại”.
Chánh tinh tấn liên quan mật thiết với Chánh niệm - tức liên tục chú tâm quán niệm đến Thân (Kāyānupassanā), Thọ (Vedanānupassanā), Tâm (Cittānupassanā), và Pháp (dhammānupassanā).
Niệm thân, Niệm thọ, Niệm tâm, Niệm pháp. Suy niệm một cách chân chính về bốn đề mục trên có khuynh hướng tận diệt bốn sai lầm rất phổ thông trong đời sống là: Vui vẻ (Subha), Lạc (hạnh phúc, Sukha), Thường (Nicca), Ngã (Attā).
Chánh niệm biết rõ mọi thao tác (quán niệm Thân), biết rõ mọi cảm giác/xúc (quán niệm Thọ), biết rõ mọi tâm trạng (quán niệm Tâm), biết rõ tiến trình Thọ-Tưởng-Hành trong mối tương quan Thân-Thọ-Tâm và ngược lại Tâm-Thọ-Thân (quán niệm Pháp). Quán pháp là mức độ Chánh niệm tổng hợp, là đang làm gì thì biết nấy, biết rõ mọi sinh hoạt lớn nhỏ đang diễn ra - tức là quán đồng thời, liên tục các diễn biến trên Thân, Thọ và Tâm.
Mức độ Chánh niệm cao nhất (vi tế nhất) là trạng thái Sát-na định - tức là Chánh niệm và Tỉnh giác đối với Sắc và Thân pháp trên từng sát-na.
Chấp vào Duy vật hay Duy tâm đều là Tà kiến vì nhờ có Danh (Tâm) và Sắc (Thân) nương gá vào nhau mới tập khởi lên vạn pháp.
TT–CN-TG là tập quán của các Bậc Thánh, của người có Tâm thánh
“Tinh tấn - Chánh niệm - Tỉnh giác” - “Vīrya - Sammā Sāti - Sampajañña”
“Quán chiếu trong Chánh niệm, rõ thấy rõ biết trong Tỉnh giác”
“Quán sát Tứ niệm xứ là Chánh niệm, rõ thấy rõ biết Thân-Thọ-Tâm-Pháp là Tỉnh giác”
Chánh niệm là quán niệm Thân-Thọ-Tâm-Pháp - tức là biết Ta đang làm gì.
Tỉnh giác là rõ thấy rõ biết Thân-Thọ-Tâm-Pháp - tức là rõ thấy rõ biết Ta đang làm như thế nào (rõ thấy rõ biết đối tượng Ta đang tỉnh giác).
Tinh tấn là chuyên cần, nhiệt tâm thực hành một cách liên tục, không ngừng nghỉ. Trong Thiền quán, đỉnh cao của Tinh tấn là thiền 24/7. Tinh tấn là thực hành Chánh niệm và Tỉnh giác một cách liên tục.
“Tinh tấn - Chánh niệm - Tỉnh giác
Trong lành - Định tĩnh - Sáng suốt
Thận trọng - Chú tâm - Quan sát”
Chánh niệm và Tỉnh giác chính là Thiền quán, chính là Hồi quang phản chiếu (thay vì hướng tâm ra ngoài chạy theo đối tượng thì hướng vào nội tâm quán chiếu Thân, Thọ, Tâm, Pháp).
Thánh soi nội tâm/bản thân -> Chánh niệm -> Công đức, Thánh trí
Thánh soi đời, soi người -> Tâm phóng dật (Tâm thất niệm) -> nhiều chuyện (tạo tác nên Nghiệp thiện/ác) -> Phiền não -> Vô minh -> Sinh tử luân hồi
Làm sao để TT-CN-TG giữa cuộc đời?
Giai đoạn 100% Thất niệm và Vọng niệm - - - - - -
Giai đoạn 50% Chánh niệm và Tỉnh giác (bữa đực bữa cái, lúc được lúc không) - - - - - - - -
Giai đoạn 100% Tinh tấn, Chánh niệm, Tỉnh giác (độc cư Thiền quán + Thiền định) —-----------------------
Chánh niệm tới đâu công đức tới đó. Chết trong Chánh niệm sẽ được tái sinh trong cảnh giới của các Chư thiên (Cõi trời). Vì sao? Vì Chánh niệm khắc kỵ với Phiền não, trong khi đó Phiền não là nguyên nhân tập khởi lên Nghiệp thiện/ác (Khổ tập đế, phi công đức).
TS. Tejaniya: “Thay vì cứ ca thán về những gì đang diễn ra hay không diễn ra, bạn cần phải trân trọng việc Chánh niệm, hay biết bất kể là đang hay biết về cái gì và học hỏi từ nó.
Chỉ mỗi Chánh niệm thôi thì không đủ! Sự khao khát muốn thực sự hiểu thấu được những gì đang diễn ra còn quan trọng hơn là chỉ cố gắng Chánh niệm. Chúng ta thực hành Thiền chánh niệm (Thiền Vipassana) là bởi vì chúng ta muốn hiểu biết.”
“Khi Tâm ghi nhận - hay biết trực tiếp (trực nhận) về một đối tượng nào đó trong hiện tại (Chánh niệm), hành giả sẽ không còn suy nghĩ gì nữa. Nếu bạn thực sự chỉ hay biết một cách trực tiếp, sẽ không còn tư tưởng nào sanh khởi trong tâm nữa. Nếu Tâm chánh niệm mạnh, Tâm tham (Lobha) loại thô sẽ không còn hiện hữu trong tâm được nữa. Nếu Tâm chánh niệm thực sự mạnh, thì sẽ không còn một Tâm tham nào có thể tồn tại trong tâm, khi đó cũng không còn Tâm sân (Dosa - nóng giận, bất mãn, khó chịu), không Tâm ngã mạn (Mana - so sánh mình với người, sinh ra tự ti mặc cảm hoặc kiêu ngạo), Tâm ghen tỵ (Issā), Tâm biển lận/gian lận/bủn xỉn/keo kiệt (Macchariya), Tâm trạo cử (Uddhacca - suy nghĩ động loạn, không kiểm soát được), Tâm hối quá (Kukkucca - sự ăn năn, hối hận, nuối tiếc), Tâm hôn trầm-thuỵ miên (Thina-Middha - dã dượi, lờ đờ, buồn ngủ) và Tâm nghi ngờ (Vicikiccha) gì nữa.
Hãy thử tưởng tượng xem, một nội tâm hoàn toàn không phiền não như thế sẽ tuyệt vời đến mức nào? Nó thực sự trong sạch, bình an và rất sáng suốt - người đã thực hành thiền lâu sẽ biết rất rõ điều này.
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sáng và an lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
Chỉ khi nào bạn đã tự mình trực tiếp chứng nghiệm được một nội tâm không có Phiền não (thuần khiết, thanh tịnh và
trong sáng), lúc đó bạn mới thực sự hiểu được sự cao thượng và an lạc của một nội tâm như vậy. Đó là lý do tại sao Tâm sở chánh niệm là một Thiện pháp, là Tâm đại thiện.” - TS. U Jotika
“Chánh niệm là ngôi nhà của Tâm. Vậy nên Tôi lấy Chánh niệm làm ngôi nhà của mình”
“Hãy làm việc quan trọng nhất đầu tiên, kẻo bạn sẽ không còn cơ hội để làm nó nữa.”
“Thân tôi chẳng có mẹ cha
Đất trời tôi nhận mẹ cha sinh thành
Tôi đây chẳng có cửa nhà
Chỉ có Chánh niệm mái nhà che thân
Với tôi sống, chết nào đâu
Chỉ có sóng thở nhịp cầu tử sinh”
TS. U Jotika
Sát-na định = Chánh niệm
Kỹ-Mạnh-Lâu-Sâu
Sử thi Ấn Độ Mahabharata có một câu chuyện minh họa về 1 người thầy và 3 người đệ tử mà tôi (Ajahn Brahm) mô phỏng để giải thích đề mục thứ ba của pháp Quán niệm hơi thở. Vị thầy đang huấn luyện các đệ tử về hành thiền và sử dụng nghệ thuật bắn cung như là phương tiện để đánh giá. Ông đã lấy một con chim nhồi bông, đặt nó trên một cành cây và đặt ra một tiêu chí rất khó bằng cách yêu cầu các đệ tử chỉ được bắn vào con mắt trái của con chim từ khoảng cách rất xa. Vị thầy dặn dò các đệ tử phải đưa tâm nhập làm một với mục tiêu, thời gian sử dụng bao lâu tùy thích, chỉ khi nào đạt tới mức độ đó thì mới nhả mũi tên. Nhưng trước khi bắt mũi tên thì phải báo trước cho thầy.
Ba mươi phút sau, người đệ tử đầu tiên ra dấu cho thầy biết rằng anh ta đã sẵn sàng. Vị thầy hỏi "Ngươi có thấy con chim trên cành cây?". Người đệ tử này trả lời "Dạ có!". Nghe vậy vị thầy liền thu lại cung tên và nói "Đồ ngốc! Hãy đi về và học lại kỹ cách hành thiền".
Người đệ tử thứ hai mất cả giờ đồng hồ trước khi ra dấu rằng anh ta đã sẵn sàng. Vị thầy hỏi "Ngươi có thấy cái cây không?". Người đệ tử thứ hai trả lời "Cây nào?". Vị thầy hỏi tiếp với niềm hy vọng khấp khởi: "Ngươi có thấy con chim không? Người đệ tử này trả lời "Dạ có". Thất vọng, vị thầy đẩy anh ta qua một bên và nói hãy đi về học lại cách hành thiền cho đúng đắn!
Cuối cùng, ông đưa cung tên cho người đệ tử thứ ba với cùng với lời hướng dẫn tương tự. Anh này phải mất hơn 2 giờ, đem tâm nhập với mục tiêu là mắt trái của con chim làm một. Cuối cùng người đệ tử thứ ba cũng ra dấu sẵn sàng bắn. Vị thầy hỏi: "Ngươi có thấy con chim trên cây không?". Anh này trả lời: "Cây nào?". Vị thầy hỏi tiếp: "Ngươi có thấy con chim không?". Người đệ tử trả lời: "Chim nào?". Vị thầy bắt đầu mỉm cười và hỏi tiếp: "Vậy ngươi đang thấy gì?". Anh đệ tử trả lời nhưng mắt vẫn không rời mục tiêu: "Bạch thầy, con chỉ thấy cái tròng mắt của con chim, chỉ có thế". Vị thầy đáp: "Tốt lắm! Hãy bắn đi!". Và dĩ nhiên, mũi tên bay xuyên qua điểm tỉnh giác duy nhất còn lại trong tâm của người đệ tử thứ ba.
Câu chuyện này là một ví dụ chính xác về phương pháp làm thế nào để hoàn tất bước ba của pháp Quán Niệm Hơi Thở. Cũng giống như người đệ tử thứ ba đã tập trung toàn tâm toàn ý vào mục tiêu - trong trường hợp này là trong mắt trái của con chim. Vì vậy nếu bạn cũng tập trung hoàn toàn vào bước thứ ban của pháp Quán Niệm Hơi Thở thì bạn cũng sẽ cảm giác được toàn bộ hơi thở ("cảm giác hơi thở trên toàn thân" - Kinh Tứ Niệm Xứ). Khi bạn hoàn tất bước thứ ba này, nếu bạn tự vấn mình: "Ta có nghe thấy âm thanh nào không?". Bạn sẽ trả lời: "Âm thanh nào?", "Ta có ghi nhận được cảm giác nào trên thân không?". Câu trả lời sẽ là "Thấy gì?", "Thân nào?", "Chỉ cảm thấy hơi thở đang hoạt động", "Ta đang là hơi thở đang vào-ra phập phồng". Tốt lắm!
Giờ nào việc nấy là Chánh niệm
Trạch pháp giác chi Chánh niệm
Tánh: chân chính, sáng suốt, sâu lắng, căn bản, tinh tường, thính/bén nhạy, thuần khiết, thanh tịnh, thư thái, êm nhẹ…
Tướng: chậm rãi, chắc chắn, cẩn trọng, an toàn, thanh bạch, trong veo…
Thể: Tâm chỉ còn thuần khiết những thức trong sáng và căn bản (Tiền ngũ thức) gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức - không có Ý thức.
Dụng: dừng, ngưng bặt Vọng tưởng (Tưởng + Hành), dừng và quay ngược bánh xe luân hồi (12 Nhân-Duyên), thanh lọc, chuyển hóa Tâm thức (an định hơn), giảm/đoạn trừ tai ương, bổ sung cho 7 đạo còn lại trong Bát chánh đạo, tăng trưởng Trí tuệ.
Nếu có Chánh niệm ta sẽ thấy tất cả là giáo lý (Phật Pháp), pháp (Vô thường - Khổ - Vô ngã) ở khắp mọi nơi.
“Người sống trong Chánh niệm là tưởng nhớ Tam bảo thường trực nhất, sâu sắc nhất” - Sư Toại Khanh
Đang bơi trong bể khổ thì làm di, đi đâu cũng là bơi trong sự khổ, kể cả Chánh niệm cũng là khổ vì Chánh niệm là hạnh lành, là liệu pháp/viên thuốc chữa bệnh nên việc chữa trị bệnh khổ về bản chất cũng là sự khổ (vì có bệnh nên phải uống thuốc). Thấy được điều này tức là hành giả cũng thấu được Khổ đế và Tập đế. Tuy nhiên cái phương thuốc Chánh niệm này sẽ là sự khởi đầu cho sự diệt khổ (Diệt đế). Chánh niệm giúp hành giả ngăn chặn được tâm tham dục. Đoạn được Dục ái thì cũng giảm thiểu vô minh (căn bản của Vô minh là Dục ái)
“Sao không ngay tại cái sinh-tử mà nhận lại sự bất sinh, bất tử?” - Huệ Năng
“Bất kỳ sự yêu thích nào trên đời cũng là yêu thích trong sự khổ” -> Hữu ái -> Tập đế - Sư Toại Khanh
Làm sao để có thể sống Chánh niệm cả ngày?
Không có kinh nghiệm gì hết. Chỉ có một cách duy nhất là phát triển Chánh niệm. Dùng niệm này tạo ra niệm kia, có nghĩa là dùng chánh niệm để biết mình thất niệm, chỉ vậy thôi.
Chánh niệm trong đời sống thường nhật phải được thực tập ngay từ những CỬ ĐỘNG NHỎ NHẤT, như cầm lên để xuống, sờ chạm, nhúc nhích... không có ông thầy hay kỹ thuật nào có thể giúp anh hay hơn chánh niệm của chính mình.
Bên thiền Samatha thì người ta dùng ĐỊNH TÂM để làm lắng dịu 5 TRIỀN CÁI, nhưng ở bên Vipassana thì hầu như chỉ có NIỆM. Niệm trong Vipassana làm nền tảng cho bốn thứ còn lại là TÍN, TẤN, ĐỊNH, TUỆ.
Chỉ cần có NIỆM MẠNH thì 5 QUYỀN sẽ có đủ. Nếu niệm yếu thì 5 quyền sẽ không quân bình. Còn thất niệm thì cả 5 quyền đều biến mất.
Đời sống nói cho cùng cũng chỉ là những hoạt động của THÂN TÂM VÀ CÁC CẢM XÚC ĐI KÈM. Cứ luôn giữ chánh niệm ở các cảnh ấy thì đã là Vipassana rốt ráo rồi.
Cứu cánh Niết Bàn chỉ có thể đạt được bằng khả năng NHÌN ĐÚNG SỰ THẬT và khả năng đó chỉ có được từ một sự nổ lực đúng mức.
Trích từ Kinh Nghiệm Tuệ Quán
Cố Đại Trưởng Lão Sunlun Sayadaw
Chánh pháp (Ariya Magga)
Chánh pháp = Con đường đạo cao thượng = Bát chánh đạo
Thế nào là Chánh pháp?
Thiết thực hiện tại: tu một giây, một phút là có kết quả ngay lập tức (Diệt đế -> Niết bàn) chứ không phải đợi một quá trình thẩm thấu rồi mới ra kết quả, tu hôm nay thì phải đợi ngày mai, lúc già hay kiếp sau mới có kết quả.
Tính thực nghiệm, thực chứng: “Ai tu người ấy chứng”. Đến, tập để mà thấy, để kiểm nghiệm và thẩm sát chứ không phải để tin.
Đức Phật: “"Đừng vội tin những gì ta nói. Mà hãy mang những lời ta nói ra thực hành, thấy đúng thì hãy tin ta!”
- Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
- Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
- Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
- Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong sách vở hay kinh điển.
- Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó lý luận siêu hình.
- Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
- Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến, quan điểm, quan kiến của mình.
- Chớ vội tin điều gì, khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
- Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
- Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Xuyên thời không: Phật pháp vượt thời gian và không gian (phi thời gian và không gian). Phật pháp đúng trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai, đúng ở trái đất này và đúng khắp nơi trong và ngoài vũ trụ.
Tính hướng thượng: tu là phải tốt lên, phải cao thượng/cao cả/bao dung/độ lượng hơn chứ không phải hạ tiện đi, ngày càng Phiền não (Tham-Sân-Si) thêm…
Dành cho người trí (hiếm hoi, số ít): Người trí là người có khả năng giác ngộ, có khả năng đi trên con đường Chánh pháp (Ariya Magga) thông qua Pháp học và Pháp hành, có tiềm năng trở thành Bậc Thánh (chứng đắc Đạo quả).
Chánh quả
Chánh quả (Chính quả) = Thánh quả
Chánh tinh tấn (Sammā Vāyāma)
Chánh tinh tấn (nỗ lực một cách chân chính, chuyên cần, chăm chỉ, tinh cần) là công phu đoạn trừ những trạng thái Tâm bất thiện và phát triển những Tâm thiện theo đúng Chánh pháp.
Chánh tinh tấn (cố gắng một cách chân chính) - chi thứ sáu của Bát chánh đạo chia làm bốn:
Cố gắng diệt trừ các Ác pháp (Bất thiện pháp) đã sanh.
Cố gắng đè nén các Ác pháp đang, hoặc chưa phát sinh.
Cố gắng làm cho Thiện pháp phát sanh.
Cố gắng trau dồi các Thiện pháp đã phát sanh.
Tứ chánh cần: “Ly dục, Ly ác pháp, Sinh thiện, Tăng trưởng thiện”
Chánh tinh tấn rất quan trọng. Theo Phật Giáo, chính sự cố gắng liên tục là yếu tố cần thiết để giải thoát chớ không phải nương nhờ hay van vái ai mà thực hiện được mục tiêu. Bên trong mỗi người đều có một kho tàng đức hạnh cao thượng và một hầm tật xấu đê hèn. Chánh tinh tấn là đè nén, tuyệt trừ tật xấu và cố gắng vun xới đắp bồi tánh tốt.
Nói gọn lại thì Chánh tinh tấn là cố gắng chú tâm kiểm soát Thân, Khẩu, Ý.
Thế nào lá sự nỗ lực, chuyên cần một cách chân chính nào khi hành thiền? Đến bây giờ rất nhiều người mới chỉ biết có một loại nỗ lực, đó là loại cố gắng cưỡng ép, tiêu tốn năng lượng do Tâm tham (Dục ái) chi phối. Tuy nhiên khi sự nỗ lực được thúc đẩy bởi động lực của phiền não như Tham (lobha), Sân (dosa) hoặc Si (moha) thì đó lại là Tà tinh tấn. Loại Tinh tấn này chỉ càng nuôi lớn thêm phiền não trong quá trình cố gắng mà thôi.
Vậy thì phải hành thiền thế nào đây? Chúng ta phải sử dụng loại nỗ lực thiện (Kusala) và loại cố gắng đúng đắn của nhẫn nại và kiên trì. Chánh niệm (Sati) cần phải cân bằng. Sự tự tin vào chính mình và đức tin (Saddhā) vào Pháp hành cần phải cân bằng. Tinh tấn (Viriya) cũng cần phải cân bằng. Những căn này,
cùng với Định (Samādhi, sự ổn định của nội tâm) và Tuệ (Paññā) tạo thành Ngũ lực (Pañcabala) làm việc nhịp nhàng cùng với nhau trong thiền.
Chánh tín (Sammā Saddhā)
Niềm tin vào Nghiệp (Kamma Saddhā)
Niềm tin vào Nghiệp quả tức Quả của Nghiệp (Vipāka Saddhā)
Niềm tin vào Nghiệp riêng/Biệt nghiệp của mỗi chúng sinh (Kamma Sakatā Saddhā)
Niềm tin vào sự giác ngộ của Đức Như Lai (Tathāgatā Bodhi Saddhā).
Tín là châu báu quí giá nhất, là 1 trong 5 Quyền (Indriya) và 5 Lực (Bala)
Si (Moha) là pháp dẫn đầu những tâm sở bất thiện (Akusala Cetasika).
Tín (saddhā) là pháp dẫn đầu những tâm sở tịnh hảo (Sobhaṇa Cetasika).
Chánh tri kiến (Sammā Diṭṭhi Sutta)
Chánh tri kiến = Chánh kiến. Viết đầy đủ là Chánh kiến-văn-giác-tri
Chánh tri kiến là rõ thấy rõ biết “Đời là bể khổ” như Đức Phật đã dạy. Phàm phu (Tâm tại thế) còn nhiều vô minh nên chỉ có thể hiểu một cách nông cạn về chữ Khổ (Dukkha). Chỉ các bậc Thánh nhân (Tâm siêu thế), cụ thể là bậc A-la-hán thì mới có Trí tuệ trực nhận rốt ráo về thực trạng khổ đau của chúng sinh.
Hành giả có Chánh tri kiến thức là đã chứng đắc đạo quả Tu đà hoàn.
Thế nào là người có Chánh tri kiến?
Tam tuệ học: Văn - Tư - Tu (Pháp học)
Tam vô lậu học: Giới - Định - Tuệ (Pháp hành)
Đức Phật: “Trong Cái thấy chỉ có Cái thấy, trong cái nghe chỉ có Cái nghe, trong Cái giác chỉ có Cái giác, trong cái biết chỉ có Cái biết…”. Cái thấy/nghe/giác/biết ở đây chính là Đối tượng chân như vốn “y như nó là” chứ không phải Cái thấy/nghe/giác/biết của Bản ngã (Thức biết của chủ thể) với sự xen vào của Thọ-Tưởng-Hành (cho là, tưởng là, nghĩ là, suy ra là…).
Kiến-Văn-Giác-Tri thường được viết tắt thành “Tri kiến”, “Chánh tri kiến”
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến
- Thấy vạn biến là thấy diễn biến sinh khởi ra các Pháp, thấy được vòng quay Thọ-Tưởng-Hành-Thức -> Pháp 1 -> Căn-Trần-Thức -> Thọ-Tưởng-Hành-Thức -> Pháp 2… Thấy được sự tập khởi của vòng luân hồi sinh tử (Vicious circle).
- Thấy Pháp là thấy Tam tướng của nó là Vô thường-Khổ-Vô ngã -> Tâm xả -> An trú (Định, Tâm định)
- Tâm định lại thấy vòng quay ra Pháp khác sinh khởi -> Xả tiếp
---
Như vậy, có n lần xả thì Tâm có n lần được thanh tịnh (Giới).
Tâm càng thanh tịnh thì lại càng Định, Tâm càng định thì càng có Tuệ, Tuệ càng lớn thì xả ly càng mạnh... -> Đoạn diệt được vòng sinh tử luân hồi (Virtuous circle)
Cái nhìn này cho thấy Giới-Định-Tuệ là phương tiện, còn xả ly hết sạch các pháp là cứu cánh (giải thoát). Hành trình Giới-Định-Tuệ -> Xả -> Giới-Định-Tuệ là Con đường giải thoát (Đạo Phật) mà Đức Thế Tôn đã chỉ ra.
Buông bỏ, xả ly
Con người có xu hướng say mê, bám chấp vào Tưởng (tưởng tượng, hồi tưởng, liên tưởng) và Hành (tư duy, suy luận). Một khi thấy nó không đáng tin, dối lừa và ác hiểm nên sinh tâm chán ngán, ghê sợ chúng nó.
Nhờ chán ngán, ghê sợ (thấy Khổ) nên mới xả ly chúng nhanh và dễ dàng (Tâm xả) để hướng Tâm về Trí tuệ bát nhã (trực nhận). Tâm xả càng mạnh thì Giới càng thanh tịnh, Giới càng trong lành thì củng cố cho Tâm định càng thêm vững vàng…
Giới-Định-Tuệ -> Xả -> Giới-Định-Tuệ -> Xả -> Giới-Định-Tuệ
Ghi chú: “suy tưởng” là từ ghép mô tả sự kết hợp, song kiếm hợp bích giữa Tưởng và Hành
Chánh tư duy (Sammā Saṇkappa)
Chánh tư duy là sự suy nghĩ một cách chân chính về Ly dục/ái hay suy nghĩ về sự Xuất gia (Nekkhamma Saṇkappa), về Ly ác pháp (Avyāpāda Saṇkappa), về Lòng từ bi/nhân từ (Avihiṃsā Saṇkappa), những đặc điểm đối nghịch với lòng vị kỷ, ác ý và tánh hung bạo. Chánh tư duy dẫn đến Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng.
Do sự hiểu biết chân chính, có những tư tưởng đúng đắn (Chánh kiến). Chánh Tư Duy là chi thứ nhì của Bát Chánh Đạo. Nhận định rằng Chánh Tư Duy là “quyết định”, hay “có nguyện vọng”, Chân Chánh ắt không đúng hẳn với Pāli ngữ Sampaka. Ý nghĩ Chân Chánh, hay suy Niệm Chân Chánh, có phần sát nghĩa hơn. “Có những tư tưởng Chân Chánh” được coi là chính xác hơn hết.
Trong Bát Chánh Đạo, Chánh Tư Duy (Sankappa) đồng nghĩa với Tâm Sở Tầm (Vitakka) - là một Sở Hữu Tâm rất quan trọng giúp ta gạt bỏ những ý tưởng và lối tư duy sai lạc (Tâm Sở Bất Thiện), đồng thời tạo nên lối suy nghĩ có tính cách thánh thiện (Tâm Sở Thiện).
Chánh Tư Duy gồm ba phần:
Xuất Gia (Nekkhamma): là sự từ khước những dục vọng trần tục (Ly dục), hay lòng vị tha, nghịch nghĩa với tâm luyến ái (Dục ái), lòng vị kỷ, bám níu vào tư sản.
Tâm Từ Ái (Avyāpāda): thiện chí, hay hảo tâm, nghịch nghĩa với thù hận, ác ý, ganh ghét.
Hiền Lương (Avihiṃsā): hiền hòa, lương thiện, không hung bạo, hay ôn hòa, Bi mẫn, nghịch nghĩa với tính hung bạo, tàn ác.
# Đúc kết:
Chánh tư duy là hành động, hành vi, thái độ (Thân-Khẩu-Ý) thuận theo chân lý, theo quy luật tự nhiên.
Chánh tư duy là Từ-Bi-Hỷ-Xả
Tấn, Niệm, Định là bộ ba kết hợp giúp thanh lọc tư duy -> Chánh tư duy. Chỉ khi đắc Quả nhập lưu thì hành giả mới đoạn tận được những Lậu hoặc (Dục lậu, Kiến lậu, Vô minh lậu) đang còn ẩn tàng (tùy miên, ngủ ngầm) trong Tâm thức, vốn đã bóp méo/làm lệch lạc tư duy trong vô lượng kiếp. Chỉ khi đến lúc đó thì việc tu học bắt đầu trở nên rất tinh chuyên (Bậc hữu học)
Quan điểm-Tri giác-Tư tưởng: Quan điểm hình thành Tri giác, Tri giác hình thành Tư tưởng, Tư tưởng củng cố, định hình quan điểm.
Quan điểm bóp méo Tri giác để phù hợp với nó -> Tri giác sai lầm.
Tri giác là nền tảng gây dựng nên Tư tưởng. Tri giác méo mó làm cho tư tưởng sai lệch.
Tư tưởng lệch lạc sẽ biện minh (Thủ) và củng cố (Hữu) cho những quan điểm hiện tại (Tập khí, Tập quán nghiệp).
Cứ như vậy, cái vòng luẩn quẩn quái ác này nó đã quay từ vô lượng kiếp trước thành Tập khí. Cái vòng này sẽ tiếp tục luân hồi bất tận và chỉ dừng lại khi hành giả giác ngộ.
Nhận thức - Quan điểm - Tri giác - Tư duy (lối tư duy, tư tưởng)
Tà kiến: coi Vô ngã là Ngã, coi Vô thường là Thường, coi Khổ là Lạc, coi Tất tịnh là Tịnh
Chánh tư duy
Ly/xả tham (Thân-Khẩu-Ý)
Xả/ly sân (Thân-Khẩu-Ý)
Bất hại (Thân-Khẩu-Ý)
Thọ lạc, Thọ hỷ, Hữu ái
Yêu, thích, ham, muốn, nghiền, nghiện, trộm cắp, tà dâm, tham ái, luyến ái
Thọ khổ, Thọ ưu, Phi hữu ái
Ghét, chê, khinh, giận dữ, khó chịu, không hài lòng, không thỏa mãn (bất đắc như ý)
Thọ xả (không hại bản thân)
Không sát sinh, không hung hăng, không ác ý, không phục vụ Bản ngã
Xả thọ, Tứ thiền (xả khổ xả lạc, diệt Thọ-Tưởng định bằng cách đè nén). Ngũ thiền = Diệt Thọ-Tưởng định trong khi vẫn còn Tâm hộ kiếp (làm chủ được Cảm thọ)
Xả thọ, Tứ thiền (xả khổ xả lạc, diệt Thọ-Tưởng định bằng cách đè nén). Ngũ thiền = Diệt Thọ-Tưởng định trong khi vẫn còn Tâm hộ kiếp (làm chủ được Cảm thọ)
Chánh tư duy: Ly dục tầm, Ly sân tầm, Ly hại tầm (lợi mình, lợi người, lợi chúng sinh)
Tứ chánh cần (ly Dục pháp, ly Ác/Tà pháp, sinh thiện Pháp, tăng trưởng Thiện pháp) là Chánh tư duy
Dục tầm, Sân tầm, Hại tầm - Dục tưởng, Sân tưởng, Hại tưởng
Tránh Tam nghiệp (Thân-Khẩu-Ý nghiệp), chừa Thập ác (10 Bất thiện pháp), giữ 8-10 giới (10 Thiện nghiệp), thực hành Bát chánh đạo, thủ hộ Lục căn (giữ 6 Căn khỏi nhiễm ô bởi 6 Trần)
Chân đế (Paramattha Sacca)
Tục đế (Hiệp thế) >< Chân đế (Siêu thế)
Bản chất (sự thực, chân lý) của vạn pháp là Chân đế. Hiện tượng (bề nổi, vẻ ngoài) của vạn pháp là Tục đế
Tục đế là Tưởng là (Tưởng tri), Nghĩ là (Hành tri), Cho là (Thức tri). Chân đế là Y như là, Y như nó là, Chân thực như nó là (Chân như).
Tục đế (Thọ tri, Tưởng Tri, Thức tri). Chân đế (Liễu tri, Tuệ tri, Thắng tri)
Chân lý
Đế = Chân lý = Sự thật cao quý
Chân lý là sự thật hiển nhiên không thể tranh luận, là sự thật khách quan không bị sai lệch bởi những tư kiến (quan kiến cá nhân), là vạn pháp trong tự nhiên vốn như nó là.
Tại sao ngôn từ không thể mô tả được Chân lý?
Vì ngôn từ là sản phẩm của Thọ-Tưởng-Hành.
Khi Căn giao với Trần thì ngay lập tức bị gã đầu bếp Thọ-Tưởng-Hành chế biến, xào nấu với tốc độ sát-na thành món mà Bản ngã (Thức ái nhiễm) muốn thấy.
Tiến trình này diễn ra quá nhanh nên ngay lập tức Chân lý trong mắt khổ chủ chính là cái món súp sền sệt xam xám chứ không đơn thuần là những nguyên liệu ban đầu tách biệt (nước trong, rau xanh...)
Khi món súp hình thành thì lại bị Thọ-Tưởng-Hành nó cuốn tiếp vào ngon-dở, thích-chê, tiếp đến là hành phúc-khổ đau bất tận…
Lúc này, khổ chủ mới bắt đầu đặt câu hỏi Chân lý là gì? Và phương pháp luận lại bắt đầu từ món súp
Vậy nên khi còn bị Thọ-Tưởng-Hành (Dục ái) chi phối thì không bao giờ thấy được Chân lý
Chân như (Tathātā)
- Không như nó là: là cái nhìn/hay biết bị chi phối 100% bởi Ngũ uẩn (Bản ngã)
- Y như nó là (Chân như): là cái nhìn/hay biết song song do "Ta" đã được tách khỏi Ngũ uẩn. Ví dụ: thấy Ngũ uẩn thì đang sân nhưng "Ta" (Tâm quan sát) không hề sân, "Ta" không bị cuốn vào cái thấy/biết của Ngũ uẩn (trong cái thấy chỉ là cái thấy).
Thực ra cái Tâm quan sát (Ta) đó cũng chỉ là Ngũ uẩn vi tế. Ngũ uẩn vi tế đang quan sát Ngũ uẩn thô phù. Chính vì vậy mà Ta nên tạm thời để trong “ngoặc kép”.
-> Kinh nghiệm + suy luận cá nhân của Vinh PN
Chân vọng
Chân như
Muốn như thế này, nên như thế này, phải như thế này, không thể như thế này
Y như nó là
Cái nhìn toàn cảnh, đa chiều sâu và rộng, cái nhìn đa đối tượng
Chạy theo cái mình thích (có thiện cảm), trốn chạy cái mình ghét (có ác cảm). Trốn khổ tìm vui,
Không còn tự mãn với Thiện pháp và cũng không còn mặc cảm với Ác pháp. Thắng không kiêu bại không nản
Chân như (Tathātā) và Như Lai (Tathāgata)
6 Pháp vô thượng: Bất kỳ Trần cảnh (6 Trần: Sắc trần, Thanh trần, Hương trần, Vị trần, Xúc trần, Pháp trần) nào xuất hiện trước 6 Căn thì hành giả cũng kiến-văn-giác-tri (nhận biết) bằng Chánh niệm và Tỉnh giác (Trí tuệ), bằng pháp quán Tứ niệm xứ. Tức là chỉ ghi nhận ở mức độ Căn-Trần (Tâm trong sáng) thôi, không bị Thức ô nhiễm chi phối để sự nhận biết đang diễn ra biến thành tưởng/nghĩ/cho là (Tưởng tri, Thức tri). Đây chính là thực hành “nhận biết các pháp như chúng là” (Chân như). Còn ngược lại, nếu để cho Thọ-Tưởng-Hành tự tung tự tác thì gọi là Tác ý - tư tác các pháp bằng Tâm sở tư, bằng cái Thức ô nhiễm (Tư kiến).
Nói theo Vi diệu pháp thì khi Trần cảnh tương giao với Tâm vương (6Căn-6Trần->6Thức) thì sẽ khởi sinh lên các Tâm sở. Lúc này hành giả sẽ trạch pháp rồi xả ly các Tâm sở bất thiện (14) và chỉ giữ lại Tâm sở tịnh hảo (25). Đây chính là buông bỏ theo đúng Chánh pháp.
Lưu ý: Để đi qua cánh rừng chỉ cần phạt cây dọn đường vừa đủ thôi, không cần phá cả cánh rừng đâu, mà sức đâu mà phá sao nổi cả cánh rừng? Vậy nên đừng có đặt tham vọng phá cả khu rừng, dọn được cây (phiền não, tâm sở bất thiện) nào thì hay cây đó. Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình, tùy duyên mà thuận pháp kẻo lại bị tâm tham dẫn dắt!
Chân tâm
Chân tâm và Vọng tâm
“Vọng tâm như mây khói phong ba
Chân tâm tựa bao la vũ trụ
Lấy chân tâm để mà làm chủ
Chớ nhận lầm cái thứ Vọng tâm
Vọng tâm mà tưởng thật là lầm
Kẻ tu niệm phải cần định rõ
Chân tâm rộng lớn và sáng tỏ
Vọng tâm thì hẹp nhỏ lu mờ
Chân tâm thì phẳng lặng như tờ
Vọng tâm rối dường tơ vò cuộn
Chân tâm chẳng vật nào lôi cuốn
Vọng tâm thì bị vướng lung tung
Chân tâm thì như khoảng không trung
Trùm vạn vật nhưng không một vật
Vọng tâm cứ đổi thay không dứt
Nhưng Chân tâm chẳng chút đổi dời
Như hư không như ánh mặt trời
Xưa cũng thế nay thời cũng thế”
Chấp
Chấp có, “Chấp không, Chấp đoạn, Chấp thường, Chấp ngã, Chấp pháp, Chấp thủ
Chấp tức là bám chấp, dính chấp, là bị vướng mắc, bị kẹt vào Kiết sử, vào Ngũ uẩn.
Chúng sinh do chấp vào Ngũ uẩn nên bị mắc kẹt vào 2 nơi là Cảnh giới (Cõi giới) và Thân (Thân kiến) rồi tạo thành Kiết sử và đi tái sinh luẩn quẩn trong Lục đạo luân hồi.
Chúng sanh chấp vào Ngũ uẩn qua 20 Pháp chấp (Pháp ngã chấp, Pháp ngã kiến)
“Thà Chấp có bằng núi Tu di, chứ đừng nên Chấp không dù chỉ bằng hạt cải."
Tục ngữ VN: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”
Xem diễn giải tại đây
Chấp có
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu, không như thuỷ nguyệt
Vật trước hữu không không.”
—
“Có thì muôn sự Có
Không thì tất cả Không
Có-Không trăng đáy nước
Đừng mắc Có cùng Không.”
Chấp không
Tánh không (Tính bát nhã) là cái thấy biết của Trí tuệ bát nhã, thấy rằng các pháp đều là hữu vi, do duyên hợp mà thành (giả hợp). Tánh không là không có Thực tướng mà chỉ có Tướng duyên hợp. Vạn pháp khi đủ duyên thì tập khởi, hết duyên thì đoạn diệt (Pháp hữu vi).
“Vạn vật trong vũ trụ đều được cấu tạo bởi những thứ không phải là nó”.
Hiểu Tánh không là không có gì, tất cả đều là không (hư vô) là Tà kiến. Vạn pháp sinh diệt (có-không) theo nhân duyên. Hiểu rằng “tất cả đều là không” như vậy là Chấp không (chỉ thấy Duyên diệt mà không thấy Duyên sinh), là chỉ nhìn được một phía (Biên kiến).
“Thà Chấp có bằng núi Tu di, chứ đừng nên Chấp không dù chỉ bằng hạt cải."
Chấp khổ
Dục thủ là muốn có dục nhưng không được (Cầu bất đắc khổ) -> Tham, Sân-Ưu
Dục thủ là có dục rồi nhưng giữ không được, không duy trì được (Hoại khổ, Chấp khổ) -> Tham, Sân-Ưu
“Còn duyên thì ta đến, hết duyên thì ta đi
Còn thương thì ta kiếm, hết thương thì ta xa
***Duyên = Dục***
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng”
Chấp đoạn
…
Chấp pháp
Hành giả hết Chấp ngã (coi Ngũ uẩn là Ta) thì cũng hết chấp thủ/dính mắc vào thế giới quan, nhân sinh quan (Chấp pháp) và trạng thái này được gọi là Vô ngã.
Xem: “Pháp chấp”, “Chấp ngã”, “Vô ngã”
Chấp ngã
Chấp ngã là chấp thủ vào Bản ngã.
Chấp ngã = “là ta”, “là mình”, Ngã sở = “của ta”, “của mình”
Vô ngã là không có Tự ngã (linh hồn chủ tể điều hành Tâm thức). Chấp ngã là ảo tưởng sai lầm cho rằng có một cái Tự ngã. Thân và Tâm (Danh+Sắc, Ngũ uẩn) chỉ là một tập hợp do duyên sinh duyên khởi (không thể tồn tại độc lập nên phải nương gá nhau) nên không có Tự ngã. Chấp Vô ngã là Tự ngã là Chấp ngã. Cái chấp Vô ngã là Tự ngã gọi là Bản ngã.
Chấp ngã là chấp vào Thức biết (Tướng biết) - tức là bị dính mắc vào cái hay biết của Thức. Trong khi Thức biết lại bị Thọ-Tưởng-Hành xen vào và làm cho Pháp hiện lên không đúng như nó là.
Coi Ngũ uẩn (Thân-Tâm, Danh-Sắc) vốn Vô ngã “là Ta” (Chấp ngã), “là của Ta” (Ngã sở).
Hành giả hết Chấp ngã (coi Ngũ uẩn là Ta) thì cũng hết chấp thủ/dính mắc vào thế giới quan, nhân sinh quan (Chấp pháp) và trạng thái này được gọi là Vô ngã.
Xem thêm: “Ngã sở”, “Ngũ uẩn”, “Ngã”, “Tự ngã”, “Ngã sở”, “Chấp pháp”, “Vô ngã”
Chấp niệm
Chấp niệm là chấp vào những ý niệm, quan niệm, khái niệm khiến ta bị dính mắc, kẹt cứng vào bên trong tâm trí, tự cầm từ bản thân trong những quy ước/chế định Tục đế.
Chấp niệm là sự dính chấp, vướng mắc (Ái-Thủ-Hữu) của Ý căn đối với Pháp trần.
Chấp thủ
- Chấp thủ = nắm giữ = bám chấp = cố chấp = bám víu = níu giữ = mắc kẹt = dính chấp = dính mắc = vướng mắc = nghiền = nghiện = ham muốn = luyến ái = ham/đam mê… -> biểu hiện (thái độ) của Vọng tâm, Bản ngã
- Buông bỏ = xả ly = buông xả = thư thái = thư giãn = thảnh thơi = an nhiên = tự tại = thong dong = bình thản = trống rỗng = tan biến -> biểu hiện (thái độ) của Tâm thiền
- Chấp thủ, dính chấp, bám chấp, dính mắc, nghiền, nghiện >< Buông bỏ, xả ly, an nhiên, thư thái, tự tại, thảnh thơi, thư giãn, thong dong
Chấp thủ là Chấp có + Chấp thường. Tuy nhiên vạn pháp đều vô thường, là Pháp hữu vi nên luôn luôn thay đổi, sinh diệt, tan hoại.
Nhận diện cái đang chấp thủ -> Chánh tri kiến
Biết cách đoạn lìa chấp thủ -> 37 Phẩm trợ đạo đặc biệt là Thiền quán Vipassana
“...Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật/việc/điều/thứ gì trên đời.” -> Những oai nghi (tư thế chuyển động đi, đứng, nằm, ngồi), các tế hành (cử chỉ thô kệch và vi tế trên Thân và trong Thân) này; những tâm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến này; những Ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành) này… tất cả chúng nó đều không phải “là mình”, không phải “là của mình” -> Không phải “là Ta”, là “của Ta” là thái độ buông xả, không chấp trước nữa thì cũng sẽ không nương tựa vào chúng nữa.
Tâm không là Tâm không chấp thủ nữa, không coi Ngũ uẩn (Danh-Sắc) là Ta, là của Ta nữa.
Đây chính là tinh thần của Quán viễn ly/xả ly/buông xả, Quán đoạn diệt, Quán từ bỏ; là tinh thần Xuất thế gian, buông bỏ/xả, Vô ngã…
Chấp trước (Chấp thủ) = Chấp ngã + Ngũ thủ uẩn + Thân kiến + Tứ thủ (Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã luận thủ).
Chấp thủ -> Hữu ái -> Tập khí -> Tập quán nghiệp
“Chư Tỳ kheo, có bốn Chấp thủ là Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã luận thủ.
Chư Tỳ kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả các Thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự Liễu tri về tất cả Thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về Dục thủ, nhưng không liễu tri về Kiến thủ, Giới cấm thủ, và Ngã luận thủ. Vì sao vậy?
Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật Tuệ tri ba sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri được tất cả Thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự Liễu tri tất cả Thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về Dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về Kiến thủ, về Giới cấm thủ, về Ngã luận thủ.”
“Chư Tỳ kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả các Thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả Thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về Dục thủ, sự liễu tri về Kiến thủ nhưng không hiển thị sự liễu tri về Giới cấm thủ, sự liễu tri về Ngã luận thủ. Vì sao vậy?
Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri hai sự. Do vậy, những Hiền giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả Thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả Thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về Dục thủ, sự liễu tri về Kiến thủ; nhưng không hiển thị sự liễu tri về Giới cấm thủ, sự liễu tri về Ngã luận thủ.”
“Chư Tỳ kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả Thủ, nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả các Thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về Dục thủ, sự liễu tri về Kiến thủ, sự liễu tri về Giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy?
Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri một sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả Thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả Thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về Dục thủ,
sự liễu tri về Kiến thủ, sự liễu tri về Giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về Ngã luận thủ.”
“Chư Tỳ kheo, trong pháp luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với Đạo Sư, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với những pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là không hoàn toàn. Vì sao vậy? Chư Tỳ kheo, sự tình là như vậy, trong một pháp luật không khéo thuyết giảng, không khéo hiển thị, không có hướng thượng, không dẫn đến tịch tịnh, không được bậc Chánh Đẳng Giác hiển thị.”
“Và này chư Tỳ kheo, bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tự xưng liễu tri tất cả các Thủ, chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả Thủ. Như Lai hiển thị sự liễu tri về Dục thủ, sự liễu tri về Kiến thủ, sự liễu tri về Giới cấm thủ, sự liễu tri về Ngã luận thủ.
Chư Tỳ kheo, trong một pháp luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Đạo Sư, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được xem là hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với các pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là hoàn toàn. Vì sao vậy?
Chư Tỳ kheo, sự tình là như vậy, trong một pháp luật khéo thuyết giảng, khéo hiển thị, có hướng thượng,
dẫn đến tịch tịnh, được bậc Chánh Đẳng Giác hiển thị.
Chư Tỳ kheo, bốn loại Chấp thủ này, lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Bốn loại Chấp thủ này lấy Ái làm duyên, lấy Ái làm tập khởi, lấy Ái làm chủng, lấy Ái làm nhân.
Chư Tỳ kheo, Ái này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỳ kheo, Ái này lấy Thọ làm duyên, lấy Thọ làm tập khởi, lấy Thọ làm chủng, lấy Thọ làm nhân.
Chư Tỳ kheo, Thọ này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỳ kheo, Thọ này lấy Xúc làm duyên, lấy Xúc làm tập khởi, lấy Xúc làm chủng, lấy Xúc làm nhân.
Chư Tỳ kheo, Xúc này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỳ kheo, Xúc này lấy Lục nhập làm duyên, lấy Lục nhập làm tập khởi, lấy Lục nhập làm chủng, lấy Lục nhập làm nhân.
Chư Tỳ kheo, Lục nhập này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỳ kheo, Lục nhập này lấy Danh-Sắc làm duyên, lấy Danh-Sắc làm tập khởi, lấy Danh-Sắc làm chủng, lấy Danh-Sắc làm nhân.
Chư Tỳ kheo, Danh-Sắc này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỳ kheo, Danh-Sắc này lấy Thức làm duyên, lấy Thức làm tập khởi, lấy Thức làm chủng, lấy Thức làm nhân.
Chư Tỳ kheo, Thức này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỳ kheo, Thức này lấy Hành làm duyên, lấy Hành làm tập khởi, lấy Hành làm chủng, lấy Hành làm nhân.
Chư Tỳ kheo, Hành này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỳ kheo, Hành này lấy Vô minh làm duyên, lấy Vô minh làm tập khởi, lấy Vô minh làm chủng, lấy Vô minh làm nhân.
Và Chư Tỳ kheo, khi một Tỳ kheo đã đoạn trừ Vô minh, đã làm Minh sanh khởi, vị ấy nhờ Vô minh được đoạn trừ, nhờ Minh sanh khởi, nên không chấp vào Dục thủ, không chấp vào Kiến thủ, không chấp vào Giới cấm thủ, không chấp vào Ngã luận thủ. Nhờ không Chấp thủ nên không Tháo động. Nhờ không Tháo động, nên tự thân chứng được Niết-bàn; vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỳ kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Xem thêm: “Vô ngã”, “Nương tựa”, “Viễn ly”, “Buông xả”, “Buông bỏ”, “Từ bỏ”, “Xả ly”, “Thủ uẩn”, “Ngũ thủ uẩn”
Xem thêm “Thủ”, “Tứ thủ”, “Ngũ thủ uẩn”
Chấp thường
“Chư pháp tùng duyên sanh, chư pháp tùng duyên diệt”. Các pháp do duyên hợp mà sinh ra, khi duyên diệt thì các pháp cũng bị diệt theo. Vô thường mà Chấp thường, Vô ngã mà Chấp ngã là Vô minh, tà Tà kiến.
Chấp trước
Chấp trước (Chấp thủ) = Chấp ngã + Ngũ thủ uẩn + Thân kiến + Tứ thủ (Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ + Ngã luận thủ)
“...Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật/việc/điều/thứ gì trên đời.” -> Những oai nghi (tư thế chuyển động đi, đứng, nằm, ngồi), các tế hành (cử chỉ thô kệch và vi tế trên Thân và trong Thân) này; những tâm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến này; những Ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành) này… tất cả chúng nó đều không phải “là mình”, không phải “là của mình” -> Không phải “là Ta”, là “của Ta” là thái độ buông xả, không chấp trước nữa thì cũng sẽ không nương tựa vào chúng nữa.
Đây chính là tinh thần của Quán viễn ly/xả ly/buông xả, Quán đoạn diệt, Quán từ bỏ; là tinh thần Xuất thế gian, buông bỏ/xả, Vô ngã…
Xem thêm: “Vô ngã”, “Nương tựa”, “Viễn ly”, “Buông xả”, “Buông bỏ”, “Từ bỏ”, “Chấp thủ”
Chế định
Danh chế định và Nghĩa chế định
Xem “Vi diệu pháp”
Chiêm bao (giấc mơ)
Chiêm bao là hoạt động Căn-Trần-Thức diễn ra trong lúc ngủ. Lạc tạ ảnh tử (bóng ở trong gương) lưu giữ lại trở thành Pháp trần để Ý căn tạo tác lên Thức (giấc mơ) trong khi ngủ.
Chỉ Quán
Chỉ quán: “Chỉ là chỉ thuần có Tư tưởng (trong ngoài, ta người, trên dưới, tốt xấu, hay dở, thiện ác, khứ lai đối tượng-chủ thể, phúc họa…), Quán là không dính mắc vào Sắc (thân) và Thọ (cảm giác)” -> Hiện tại lạc trú (phi thời không) - HT. Thích Giác Khang
Chuyển hóa
Chuyển hóa = thay xiềng sắt bằng xiềng bạc, thay xiêng bạc bằng xiềng vàng, thay xiềng vàng bằng xiềng kim cương
Chú tâm (Manasikāra)
Manasikāra = Hướng tâm = Chú tâm = Chú ý = Để tâm = Để ý tới đối tượng, đề mục một cách có chủ ý (Tác ý, Tư tác)
Āvajjana = Hướng tâm. Āvajjana diễn ra một cách tự nhiên ngoài Ý thức, là một Tâm sở khởi lên trong Tiến trình tâm (Lộ trình tâm).
Chúng sanh (chúng sinh)
Chúng sinh hữu tình (chúng sanh ở 3 cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) và Chúng sanh vô tình (cây cối, đá sỏi, đất đá).
Chúng sinh có 4 loài:
Thai sanh: sinh nở bằng hoài thai trong bụng mẹ
Noãn sanh: sinh nở từ việc đẻ trứng rồi ấp nở.
Thấp sanh: sinh ra từ bùn đất ẩm thấp.
Hóa sanh: đủ duyên (điều kiện) thì sinh ra như phản ứng hóa học, biến đổi lượng tử. Ví dụ O2 + H = H2O, nước duyên với nhiệt độ sinh ra hơi nước, Acid Amin -> Protein -> Acid Nucleic, Chư thiên cũng do hóa sanh mà có (Tâm thiền, Tâm định)…
Không có Chúng tử và chỉ có Chúng sinh. Vì sao? Đó chỉ là biến mất của đối tượng (Trần cảnh) khỏi Căn và Thức của Phàm nhân (Căn-Trần-Thức). Chúng sinh không mất đi mà chỉ Duyên diệt ở trong cõi này rồi Duyên sinh ở cõi khác trong Lục đạo luân hồi.
15 HẠNG CHÚNG SANH (HT. THÍCH GIÁC KHANG)
Chúng là chung, sanh là sống. Chúng sanh là sống chung. Trong vũ trụ có nhiều loại sống chung, Đức Phật chia ra 15 hạng. Sống chung có nhiều phương diện, gom gọn có 3: Thân-Tâm-Hoàn cảnh.
- Thân: tức là xác thân tứ đại (đất, nước, lửa, gió) tạo thành.
- Tâm: tức là sự hiểu biết.
- Hoàn cảnh: môi trường chung quanh người và vật cùng sinh sống.
Sau đây là 15 hạng chúng sanh:
4 ĐƯỜNG ÁC:
1- Địa ngục.
2- Ngạ quỷ.
3- Súc sanh.
4- Atula.
4 ĐƯỜNG THIỆN:
1- Người.
2- Trời dục giới.
3- Trời sắc giới.
4- Trời vô sắc giới.
4 TIỂU THÁNH:
1- Nhập lưu.
2- Nhất vãng lai.
3- Bất lai.
4- Alahán.
3 BẬC TAM TÔN:
1- Bích chi duyên giác.
2- Bồ tát.
3- Như lai.
Chúng ta tìm hiểu Thân Tâm của 15 hạng chúng sanh, còn Hoàn cảnh tự suy ra để hiểu.
BỐN ĐƯỜNG ÁC:
1- ĐỊA NGỤC: có 2 phần:
Thân:
Địa ngục vô gián: 10 tình (thuần tình), thuộc vật lý, chưa có sự sống, thân chai lỳ, trơ cứng.
Vũ trụ: đất, nước, lửa, gió,…chưa có sự sống. Như đất mà cây cỏ không thể mọc hoặc sống được gọi là đất chết,…
Con người là các chất thải của cơ thể: nước mắt, nước tiểu, mồ hôi, ghèn, cứt ráy, phân,…
Địa ngục hữu gián: thuộc sinh lý, có sự sống, bắt đầu có 9 tình - 1 tưởng.
Vũ trụ: đất, nước, lửa, gió,…đã thọ khí âm dương, có sự sống. Như đất màu mỡ, nước nhiều phù sa,…
Con người là: phù trần căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, óc; tịnh sắc căn là hệ thống dây thần kinh: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác; tịnh sắc căn vi tế là trung khu thần kinh óc. Hoặc là người bị phỏng vết thương bị chai cứng, gây tê, thuốc mê, bán thân bất toại,...
Tâm: chưa có cái biết. Tâm người điên, người tạo tội ngũ nghịch (giết cha mẹ, giết Alahán, làm Phật ra máu, phá hòa hiệp tăng). Làm điều sai quấy được người nhắc nhở cũng không biết.
2- NGẠ QUỶ: có 8 tình - 2 tưởng.
Thân: chuyên sống về dục vọng tức cảm giác đê tiện, thích xe xua, trang điểm, chưng diện,….
Vũ trụ: cỏ, cây,….
Những người nương vào phù trần căn có cái đam mê dục vọng như: Mắt thích nhìn sắc đẹp,…; Tai thích nghe tiếng hay,…; Mũi thích ngửi mùi thơm,…; Lưỡi ăn, uống thỏa thích,…; Thân thích trau chuốt phấn, son, xức ướp dầu thơm, quần là áo lụa tươi tốt,…
Tâm: thuộc cảm giác, có cái biết chưa phân biệt. Tâm tham lam, ranh ma, xảo quyệt, bỏn xẻn, vơ vét chiếm hữu vật chất bên ngoài về cho mình, cho gia đình mình. Làm điều sai quấy được người nhắc nhở mà còn làm quấy thêm cho người ta tức.
3- SÚC SANH: có 7 tình - 3 tưởng.
Thân: chuyên sống về bản năng sinh tồn.
Vũ trụ: loài thú: trâu, bò, heo, chó, gà, vịt,...
Những người vì sự sinh tồn của xác thân nên phải cật lực lao động quần quật, lam lũ, đầu tắt mặt tối,...
Tâm: có cái biết phân biệt lờ mờ về dục vọng và sự vật. Chưa hiểu được phải, quấy, tốt, xấu,…Tính hay sân giận, cau có,…Làm bất cứ việc gì nhằm chiếm hữu vật chất bên ngoài về cho mình, cho gia đình mình. Làm điều sai quấy được người nhắc nhở còn bảo thủ, nổi nóng, cãi cọ với người ta,...
4- ATULA: có 6 tình - 4 tưởng.
Thân: hành động bằng bạo lực,…
Vũ trụ: những vị thần thờ ở đình, miễu,…
Những người thân đầy vết xẹo, thích mang gươm, mề đay, vòng hoa chiến thắng,… chuyên sống về quyền tước, công thần, địa vị,…
Tâm: có cái biết phân biệt về dục vọng và sự vật một cách lờ mờ. Chưa phân biệt được thiện, ác,… Cá tính tật đố, ganh tỵ, ham chiến đấu,…Thích được tôn vinh, nịnh hót, khen thưởng,…ghét bị chê bai, phê bình góp ý,…Dùng bạo lực qua thân khẩu để tranh giành chiếm hữu ngũ dục về cho mình, cho gia đình mình. Làm điều sai quấy được người nhắc nhở còn khinh khỉnh, đấu đá, đánh đấm người ta,…
Tóm lại bốn đường ác có Thân chuyên sống bằng phù trần căn, chưa biết giữ giới, ăn chay. Tâm tán loạn, dùng tưởng tri làm cái biết. Sanh vào cảnh giới hèn hạ, khổ sở, tật nguyền,…có đủ 3 khổ: khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.
BỐN ĐƯỜNG THIỆN:
5- NGƯỜI: có 5 tình - 5 tưởng. Giai đoạn chuyển tiếp từ ác sang thiện.
Thân: sống bằng phù trần căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, óc thô phù) kết hợp với tịnh sắc căn.
Vũ trụ: loài người.
Những người biết giữ 3 giới: 1- Không sát sanh; 2- Không trộm cắp; 3- Không tà dâm. Một tháng ăn chay 6 ngày.
Tâm: có ý chí, bắt đầu chuyển từ tưởng tri sang thức tri. Chiếm hữu ngũ dục (ngoại sắc) về cho mình, cho gia đình mình có luân lý. Dùng ý chí chuyển nghiệp ác thành thiện. Sống có luân lý, biết thương mình, thương người, biết cải sửa việc làm sai quấy, khi thành công khi thất bại.
6- TRỜI DỤC GIỚI: có 4 tình - 6 tưởng.
Thân: sống bằng phù trần căn và tịnh sắc căn.
Vũ trụ: 6 cõi trời dục giới.
Những người có cuộc sống thanh cao. Giữ 5 giới:1-Không sát sanh; 2-Không trộm cắp; 3-Không tà dâm; 4-Không nói dối; 5-Không ghiền, nghiện ngập những chất: rượu, ma túy, cờ bạc, thuốc lá, cafê,… Một tháng ăn chay 10 ngày.
Tâm: dùng ý chí và kinh nghiệm chuyển nghiệp ác thành thiện, luôn cải sửa việc làm sai quấy, chiếm hữu ngũ dục có chọn lọc,... Sống có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; biết thương mình, thương người, không ăn cũng không giết thú lớn: heo, chó, gà, vịt,…Tập tu tứ thiền diệt 5 triền cái: hôn trầm, hoài nghi , sân , phóng dật , tham dục. Nếu có Thiện tri thức khai ngộ có thể đắc 2 quả Thánh đầu là Nhập lưu, Nhất vãng lai.
Tu Tứ thiền:
1- Sơ thiền: tầm-sát-hỷ-lạc-tịnh định xả.
2- Nhị thiền: hỷ - lạc- tịnh định xả.
3- Tam thiền: lạc- tịnh định xả.
4- Tứ thiền: tịnh định xả.
7- TRỜI SẮC GIỚI: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền
Thân: sống bằng tịnh sắc căn.
Vũ trụ: 3 cõi trời sơ thiền có 3 tình-7 tưởng; 3 cõi trời nhị thiền có 2 tình-8 tưởng; 3 cõi trời tam thiền có 1 tình-9 tưởng. Cõi sơ thiền là giai đoạn chuyển tiếp từ sắc uẩn sang thọ uẩn, bỏ chiếm hữu ngoại sắc (sắc uẩn) sang chiếm hữu nội sắc (thọ uẩn).
Những người sống cao thượng. Giữ 8 giới: 1- Không sát sanh; 2- Không trộm cắp; 3- Không dâm dục; 4- Không nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi; 5- Không dùng những chất gây nghiện, không tham lam, sân hận, si mê; 6- Không ngồi ghế cao, nằm giường rộng, chiếu lớn, chỗ xinh đẹp; 7- Không nghe xem hát múa, đờn kèn, tham dự chỗ đông vui yến tiệc; 8- Không trang điểm phấn son, dầu hoa, áo quần hàng lụa tươi tốt. Ăn trường chay, tuyệt dục.
Tâm: ý chí mạnh mẽ, kinh nghiệm dồi dào, luôn làm việc thiện tránh việc ác.
Chiếm hữu nội sắc, an trú trong niềm hỷ lạc (thọ uẩn).
Biết thương mình, thương người, thương tất cả các loài thú lớn, nhỏ.
Tu thiền định nối kết được 5 triền cái. Nếu có Thiện tri thức khai ngộ có thể đắc quả Thánh Bất lai.
8- TRỜI VÔ SẮC GIỚI: Tứ thiền, Tứ không. 10 tưởng (thuần tưởng).
Thân: sống bằng tịnh sắc căn vi tế là trung khu thần kinh óc.
Vũ trụ: 9 cõi Tứ thiền sắc giới và 4 cõi Tứ không (Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng- phi phi tưởng).
Tứ thiền sắc giới là giai đoạn chuyển tiếp từ thọ uẩn sang tưởng uẩn. Dùng định đè nén không dính mắc vào sắc uẩn, thọ uẩn, ở trạng thái bất lạc bất khổ thọ.
Những người sống tiêu diêu, thanh tịnh; giữ 10 giới: 8 giới của cõi Sắc giới cộng thêm: 9- Không ăn sái giờ từ quá ngọ đến ngọ mai, ăn trường chay; 10-Không rớ đến tiền bạc, vàng, của quý và đồ trang sức,…
Tâm: có ý chí kiên cường, kinh nghiệm tuyệt chiêu, thuần thiện. Chiếm hữu cái mông lung. Tứ thiền chìm đắm trong “hiện tại lạc trú”, Tứ không chìm đắm trong “tịch tịnh trú”. Biết thương mình, thương người, thương thú lớn, thú nhỏ, cây cổ thụ. Tự tại xuất nhập định. Nếu có Thiện tri thức khai ngộ có thể đắc quả Thánh thứ 4 là Alahán.
Tóm lại: 4 đường thiện là người và trời dục giới có Thân ½ phù trần căn + ½ tịnh sắc căn, trời sắc giới có Thân là tịnh sắc căn, trời vô sắc giới có Thân là tịnh sắc căn vi tế. Biết giữ giới, cải sửa ác thành thiện, tu thiền định, thức trong sáng, sanh vào cảnh giới tốt đẹp, thanh nhàn. Tâm nhất niệm, dùng thức tri làm cái biết. Nếu không tiếp tục tu, hưởng hết phước sẽ bị đọa xuống 4 đường ác.Còn đủ 3 khổ
-Cõi dục giới còn đủ 3 khổ.
-Cõi trời sắc giới lầm tưởng dứt khổ khổ, bởi trong thiền định lòng tham dục ngủ ngầm.
-Cõi trời vô sắc giới lầm tưởng dứt khổ khổ và hoại khổ vì Tứ không không có xác thân nên tham dục và tham sắc tạm lắng.
TỨ THÁNH:
9- NHẬP LƯU:
Thân: như người, trời dục giới.
Vũ trụ: cõi Thánh Nhập lưu.
Người tu xuất gia khất sĩ: Tăng giữ 250 giới; Ni giữ 348 giới. Ngọ trai, hành tứ y pháp.
TỨ Y PHÁP:
1- Ăn: chỉ ăn đồ xin mà thôi. Nhưng ngày hội thuyết pháp, đọc giới bổn được ăn tại Tịnh xá.
2- Mặc: chỉ lượm vải bỏ đâu lại thành áo. Nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.
3- Ở: chỉ ngủ, nghỉ dưới cội cây. Nhưng có ai cúng lều, am, cốc bằng lá một cửa được ở.
4- Bệnh: chỉ lượm phân uế của bò mà làm thuốc khi ốm đau. Nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường được dùng.
Tâm: Bình đẳng. Thương người, thú lớn, thú nhỏ, cây to đến cỏ nhỏ cũng không nhổ. Nhận 6/24 Phật tánh, dùng thắng tri lặng lẽ chiếu kiến chấm dứt 3 kiết sử đầu: Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi não. Có Chánh kiến không dính mắc thân-tâm-cảnh của 4 đường ác.
10- NHẤT VÃNG LAI:
Thân: như trời Sắc giới.
Vũ trụ: cõi Thánh Nhất vãng lai.
Người tu xuất gia khất sĩ: giữ 250 giới (Tăng), 348 giới (Ni). Ngọ trai, hành tứ y pháp.
Tâm: Bình đẳng. Không giết người, thú lớn, thú nhỏ, cây to đến cỏ nhỏ cũng không nhổ. Nhận 12/24 Phật tánh, dùng thắng tri lặng lẽ chiếu kiến còn gọi là trí huệ trực giác làm nhẹ 2 kiết sử: Tham dục và Sân của cõi dục, chấm dứt thân-tâm-cảnh của người và trời Dục giới.
11- BẤT LAI:
Thân: như cõi trời Vô sắc giới.
Vũ trụ: cõi Thánh Bất lai.
Người tu xuất gia khất sĩ: giữ 250 giới (Tăng), 348 giới (Ni). Ngọ trai, hành tứ y pháp.
Tâm: Bình đẳng. Không giết người, thú lớn, thú nhỏ, cây to đến cỏ nhỏ cũng không nhổ. Nhận 18/24 Phật tánh, dùng thắng tri lặng lẽ chiếu kiến còn gọi là trí huệ trực giác dứt hẳn 2 kiết sử: Tham dục và Sân, chấm dứt thân-tâm-cảnh của trời Sắc giới.
12- A-La-Hán:
Thân: Bản thể vũ trụ.
Vũ trụ: cõi Thánh Alahán.
Người tu xuất gia khất sĩ: Tăng giữ 250 giới. Ngọ trai, hành tứ y pháp. Còn sống là Hữu dư y Niết bàn. Khi nhập-diệt-thọ-tưởng-định là Vô dư y Niêt bàn.
Tâm: Bình đẳng. Phật tánh thuần thục 24/24, dùng tuệ tri lặng lẽ chiếu kiến chấm dứt 5 độn sử vi tế: Tham sắc, Tham vô sắc, Phóng dật, Ngã mạn, Chi mạt Vô minh. Thấy rõ sự chuyển biến: đứng lặng, xao động, sự dung thông giữa tư tưởng với Bát nhã. Chấm dứt thân-tâm-cảnh của trời vô sắc giới.
Tóm lại: Tứ Thánh có Thân giữ 250 giới. Tâm vô niệm. Ba bậc Thánh đầu dùng Thắng tri có cái: nhìn, thấy, biết. Thánh Alahán dùng Tuệ tri như thật biết hiện tượng giới
1- Nhập lưu: nhìn biết rõ sắc uẩn 4 đường ác, còn đủ 3 khổ.
2- Nhất vãng lai: nhìn thấy biết rõ sắc uẩn của người, trời dục giới, làm nhẹ khổ khổ.
3- Bất lai: thấy biết rõ thọ uẩn của trời sắc giới, dứt hẳn khổ khổ.
4- Alahán: như thật biết tưởng uẩn, hành uẩn và một phần thức uẩn, dứt hẳn khổ khổ và hoại khổ.
BA BẬC TAM TÔN:
13- BÍCH CHI, DUYÊN GIÁC:
Thân: Bản thể vũ trụ.
Vũ trụ: cõi Bích Chi, Duyên giác.
Người tu xuất gia: Tăng giữ 250 giới. Ngọ trai, hành tứ y pháp. Sống hay chết đều Vô dư y Niết bàn.
Tâm: Bình đẳng. Đi khắp nơi để đền nghiệp và làm quen với chúng sanh, nhưng chưa đi giáo hóa.
14- BỒ TÁT:
Thân: Bản thể vũ trụ.
Vũ trụ: cõi Bồ tát Thánh.
Người tu xuất gia: Giữ 10 giới trọng và 48 giới khinh.
Tâm: Bình đẳng. Tùy thuận giáo hóa chúng sanh, ứng hóa thị hiện một thân cho đến nhiều thân, giáo hóa trong một cõi cho đến nhiều cõi.
15- NHƯ LAI:
Thân: chính là Pháp giới vũ trụ.
Vũ trụ là cõi Phật.
Như lai không còn giữ giới, vì giới chính là thân Như lai, thân Như lai chính là giới.
Tâm: Rốt ráo của Bồ tát Thánh, tự tại lập tức ứng hiện vô lượng thân trong vô biên cõi giáo hóa chúng sanh, bất khả tư nghì.
Tóm lại : Ba bậc Tam Tôn có Tâm vô niệm mà niệm, niệm mà vô niệm, dùng liễu tri diệu dụng ứng hóa thân độ chúng sanh. Thân rốt ráo chính là pháp giới vũ trụ. Duyên giác và Bồ tát Thánh trên đường dứt hành khổ. Như lai dứt hẳn 3 khổ.
Đấy là trình tự tiến hóa của 15 hạng chúng sanh. Tứ Thánh tự độ đã xong, Ba bậc Tam Tôn thực hiện hạnh đại từ đại bi giáo hóa chúng sanh.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT_()_
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Chúng sanh hữu tình
Chúng sinh hữu tình là chúng sanh có tình cảm yêu ghét. Chúng sinh hữu tình theo Vi diệu pháp là tập hợp của Ngũ uẩn trên một tiến trình Danh và Sắc (không có linh hồn).
Chúng sinh hữu tình = Danh + Sắc (Thân + Tâm).
Thân người Tâm quỷ -> Cảnh giới quỷ và Tướng quỷ
Thân súc sinh Tâm người -> Cảnh giới người và Tướng người
Chúng sanh vô tình
…
Chủng tử (Bijā)
Chủng từ là mầm giống tái sinh trong tâm, cụ thể là trong A-lại-da-thức.
“Mầm giống (Khīna-bijā) vô minh ái dục đã bị tận diệt, những ham muốn vị kỷ không còn khởi sanh” - Kinh Tam Bảo (Ratana Sutta)
Chư thiên
Xem “Cõi trời”
Chứng ngộ
Chứng ngộ bằng Trí tuệ trực giác (Pháp hành, tu tập)
Chứng đắc
Chứng đắc là đoạn trừ được các tâm bị trói buộc (Kiết sử) và che khuất (Triền cái)
3 hạng người không thể chứng đắc Quả vị thánh:
1. Nuôi nguyện lớn (Bản nguyện), muốn tu thành Thánh, thành Phật. Chưa Công viên Quả mãn thì dù Trí nhiều như đất (huệ), Phước nhiều như biển (phước) thì cũng không thể chứng đắc.
2. Chưa đủ phước và công hạn ba-la-mật
3. Có đủ phước và công hạnh ba-la-mật nhưng do nhân duyên chưa hội tụ (túc duyên nhưng chưa duyên hội) nên vẫn chưa thể chứng đắc. Ví dụ, nếu công đức ba-la-mật đã đủ nhưng do thân thể đã già cỗi nên vẫn chưa thể chứng đắc (điều kiện vật lý và sinh học làm trì trệ tâm lý)
Chứng nghiệm (Kinh nghiệm)
Kinh nghiệm (Chứng nghiệm) với nghĩa là cảm nhận, trải nghiệm những gì đang diễn ra trong hiện tại. Từ kinh nghiệm (experience) trong Thiền quán là để chỉ những gì đang diễn ra trong thực tại, những gì Chánh niệm đang quan sát được. Đó có thể là tiến trình Thân hoặc Tâm như hơi thở, cảm giác, suy tưởng, suy nghĩ, tâm sân, tâm hỷ-lạc... khởi lên trong quá trình quan sát. Không nên hiểu từ "kinh nghiệm" này theo nghĩa nhân gian là các kỹ năng, tri thức thu thập được từ trong công việc và đời sống (kinh nghiệm sống, làm việc, giao tiếp...)
Chướng
Chướng là Chướng ngại, cản trở, ngăn che, làm cho khuất lấp.
Chướng ngại (Ma chướng) gồm có 5 Triền cái và 10 Kiết sử. Triền cái làm cho Tâm bị ngăn che, Kiết sử trói buộc Tâm làm cho Tâm vô minh.
Xem “Sở tri chướng”, “Phiền não chướng”, “Triền cái”, “Kiết sử”.
Chướng duyên
Duyên khởi, Duyên sinh, Duyên diệt, Duyên hợp, Duyên tan, Trợ duyên, Thuận duyên, Nghịch duyên, Chướng duyên, Tùy duyên thuận pháp, Vạn sự từ duyên
Chướng ngại (Āvaraṇa)
Chướng ngại (Ma chướng) là những phiền não ngủ ngầm, là 10 Kiết sử (trói buộc, sai sử), 5 Triền cái (ngăn che, khuất lấp).
Thất giác chi là 7 Thiện tâm có lợi cho việc giác ngộ. Còn 5 Triền cái và 10 Kiết sử là những Bất thiện tâm gây cản trở cho việc giác ngộ (Ma chướng, Chướng ngại).
Thánh ngôn: “Phiền não tức Bồ đề”, “Chướng ngại tức Bồ đề”
Tục ngôn: “Để cho đời nó dạy”, “Cứ để đời nó vả cho vài phát thì ắt sẽ sáng mắt ra”, “Thất bại là mẹ thành công”
Chướng ngại, Nghiệp chướng, Uẩn khúc, Khúc mắc, Chướng duyên, Ác duyên, Tai ương, Khổ ách, Biến cố…
Chống lại, phản kháng, áp đặt
Tránh duyên
Đối trị
Ý chí
Buông xả (mặc kệ nó)
Vô minh
Như lý tác ý
Như lý tác ý
Thánh trí
Xem thêm: Sở tri chướng, Phiền não chướng, 5 chướng ngại
Chướng ngại pháp
Tịnh tướng (Tướng trong Tâm thanh tịnh) >< Đối ngại tướng (Tướng trong Tâm đối đãi nhị nguyên, Tâm phân biệt, Tâm Tham-Sân-Si).
“Hoan hỉ thì sinh khí, buồn phiền thì tử khí”
Cõi giới
Dục giới có 11 cõi, Sắc giới có 16 cõi và Vô sắc giới có 4 cõi. Tổng cộng có 31 cõi làm nơi trú xứ cho 6 loại chúng sinh.
Ba cõi sáu đường (Tam giới Lục đạo):
3 cõi (Tam giới): Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Dục giới có 11 cõi, Sắc giới có 16 cõi và Vô sắc giới có 4 cõi. Tổng cộng có 31 cõi làm nơi trú xứ cho 6 loại chúng sinh.
6 đường (Lục đạo luân hồi): Thiên đạo, Nhân đạo, Atula/Thần đạo, Súc sinh đạo, Ngạ quỷ đạo, Địa ngục đạo
Chúng sanh ở Tam giới được phân thành 6 loại và trú xứ tương ứng trong 6 nẻo (Lục đạo luân hồi, Cõi ta bà)
TAM CÕI
CUNG TRỜI
THIỆN / ÁC
TÂM
DỤC GIỚI (11)
Cõi địa ngục
18 tầng địa ngục
Ác đạo
Lục đạo luân hồi
-
Cõi ta bà
-
Trần gian
Cõi ngạ quỷ
24 loài Ngạ quỷ
Ác đạo
Cõi súc sinh
Vô vàn loài
Ác đạo
Cõi A-tu-la
Ác đạo
Cõi người
Thiện đạo
Cõi trời dục giới (6)
Tứ đại thiên vương
Thiện đạo
Đao lợi
Thiện đạo
Dạ ma
Thiện đạo
Đâu xuất
Thiện đạo
Hóa lạc
Thiện đạo
Tha hóa tự tại
Thiện đạo
SẮC GIỚI (16)
Sơ thiền (3)
Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên
Tâm thiền + Tâm quả
Nhị thiền (3)
Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang âm thiên
Tam thiền (3)
Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên
Tứ thiền (7)
Vô tưởng thiên, Quảng quả thiên, Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện kiến thiên, Thiện hiện thiên, Sắc cứu cánh thiên
Ngũ tịnh cư thiên (tính từ Vô phiền thiên trở lên) ~ A-na-hàm
VÔ SẮC GIỚI (4)
Không vô biên xứ
Tâm định
Thức vô biên xứ
Tâm định
Vô sở hữu xứ
Tâm định
Phi tưởng, phi phi tưởng xứ
Tâm định
Chúng sinh ở Cõi dục giới lấy Lục trần (Trần cảnh) làm đối tượng
Chúng sinh ở Cõi sắc giới lấy Tâm thiền (Sắc cảnh) làm đối tượng
Chúng sinh ở Cõi vô sắc giới lấy Tâm định (Vô sắc cảnh) làm đối tượng
CÕI GIỚI
NHẬN THỨC (TÂM)
Trời
Người
Có tri giác và Thọ, Tưởng, Hành, Thức cực mạnh
Luân lý, đạo nghĩa, bổn phận, trách nhiệm
A-tu-la
Xúc sinh
Không có đạo nghĩa, nhưng có luân lý ở mức độ thấp
Ngạ quỷ
Có tri, có giác nhưng chỉ hơn tấm gương chút
Địa ngục
Vô tri, chỉ còn cảm giác (Thọ)
Tam giới duy Tâm, vạn pháp duy Thức
“Nhân thân nan đắc
Phật pháp nan văn
Thiện duyên nan ngộ
Phật quốc nan sanh
Nhất thất nhân thân
Vạn kiếp nan phục”
–
“Thân người khó được
Phật pháp khó nghe/học
Duyên lành khó gặp
Xứ Phật khó vô
Một khi mất thân người
Muôn kiếp khó tìm lại”
Chú giải:
“Phật pháp nan văn” nghĩa là Phật pháp vốn đã khó học, nhưng được tiếp xúc với Chánh pháp còn khó hơn.
“Xứ Phật khó vào - Phật quốc nan sanh” nghĩa là sinh ra đời được tiếp cận với Chánh pháp hoặc được gặp Phật là điều hy hữu.
31 cõi (Bhūmi)
11 cõi Dục
4 cõi khổ (apāya):
Địa ngục (Nirayo)
Súc sanh (Tiracchāna)
Ngạ quỷ (Peta)
Atula (Asura)
7 Dục giới (kāmasugatibhūmi):
Cõi người (Manussa)
Cõi Tứ đại vương (catummahārājā)
Cõi Ba mươi ba (Tāvatiṃsa)
Cõi Dạma (Yāmā)
Cõi Đẩu-suất (Tusitabhūmi)
Cõi Hóa lạc thiên (Nimmānarati)
Cõi Tha hóa tự tại (Paranimmitavasavattī)
16 Cõi Sắc giới (rūpavacarabhūmi)
Tầng sơ thiền:
Cõi Phạm chúng thiên (Brahmapārisajjabhūmi)
Cõi Phạm phụ thiên (Brahmapurohitabhūmi)
Cõi Đại phạm thiên (Mahābrahmābhūmi).Tầng Nhị thiền:
Cõi Thiểu quang thiên (Parittābhābhūmi)
Cõi Vô lượng quang thiên (Appamāṇābhābhūmi)
Cõi Quang âm thiên (Ābhassarābhūmi).Tầng Tam thiền:
Cõi Thiểu tịnh thiên (Parittasubhābhūmi)
Cõi Vô lượng tịnh thiên (Appamāṇasubhābhūmi)
Cõi Biến tịnh thiên (Subhākiṇṇābhūmi).Tầng Tứ thiền:
Cõi Quảng quả (Vehappalābhūmi)
Cõi Vô tưởng (Asaññasattabhūmi)
5 cõi Tịnh cư (Suddhāvāsa):
Cõi Vô phiền (Avihābhūmi)
Cõi Vô nhiệt (Atappābhūmi)
Cõi Thiện kiến (Sudassābhūmi
Cõi Thiện hiện (Sudassī bhūmi)
Cõi Sắc cứu cánh (Akaniṭṭhabhūmi).
4 Cõi Vô sắc (arūpavacarabhūmi)
Cõi Không vô biên xứ (ākāsānañcāyatanabhūmi)
Cõi Thức vô biên xứ (viññāṇañcāyatanabhūmi)
Cõi Vô sở hữu xứ (ākiñcāyatanabhūmi)
Cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasaññānāsaññāyatana bhūmi).
Xem “Giới”, “Đạo”, “Cõi tại thế”, “Cõi siêu thế”
Cõi người, Cõi trời (Cõi chư thiên, cõi thiên nhân), Cõi trời Phạm Thiên, Cõi người
Cõi ta bà (Sahā Lokadhātu)
Cõi Ta Bà nghĩa là thế giới chịu đựng, nhẫn giới. Đây là thế/cõi giới mà chúng sinh phải chịu đựng các phiền não, khổ sở (Khổ).
Cõi ta bà = Tam giới (3 cõi), Cõi nơi chúng sanh trú xứ
Xem thêm: “Giới”, “Đạo”, “Cõi giới”, “Dục giới”, “Sắc giới”, “Vô sắc giới”
Cõi Tây Phương
“Nhất tâm bất loạn vãng sanh về miền Tây Phương cực lạc”. Nhất tâm (Tâm định) là Nhân, cõi Tây phương là Quả.
Cõi trời (cõi thiên nhân, cõi chư thiên, Deva)
Cõi trời (cõi của các Chư thiên) cũng thuộc về Dục giới và được chia thành 6 tầng bậc (Dục giới lục thiên):
1. Tứ thiên vương thiên (Catumaharajika)
2. Đao-lợi thiên hay Tam thập tam thiên (Tryastriṃśa)
3. Dạ-ma thiên (Yma)
4. Đâu-suất thiên (Tuṣita)
5. Hóa lạc thiên (Nirmṇarati)
6. Tha hóa tự tại thiên (Para-nirmita-vaśa-vartin).
Mỗi cõi trời này đều có một vị Thiên vương đứng đầu các vị thiên chúng. Cõi chư thiên là cõi tái sinh của các vị đã tạo được nhiều phước trong tiền kiếp ở cõi Dục giới.
Cõi trời dục giới (Lục dục thiên)
Chư thiên ở Lục dục thiên là do đã làm nhiều việc thiện lành (bỏ ác làm lành) trong các kiếp sống trước nên được tái sinh ở cõi này để hưởng phước. Do Nhân là Gieo việc thiện chứ không phải là Tu thiền nên khi hết phúc, chúng sinh cõi này lại bị đọa ngược về các cõi thấp hơn. Phước do Chư thiên cõi dục giới chủ yếu là Phước vật - của bố thí do Chánh nghiệp, Chánh mạng mà có, bố thí Phước điền một cách cung kính và Bi điền một cách hoan hỉ.
Hạnh phúc ở các cõi Dục thiên càng lên cao càng vi tế dần. Đến cả cách bày tỏ tình cảm nam nữ cũng thế. Từ cõi Đao Lợi trở xuống, mọi chuyện giống hệt Cõi người (yêu nhau và sinh con cái bằng cách giao hợp). Ở cõi Dạ Ma (Yāmā) chỉ ôm nhau cũng có thể giao hoan và thụ thai. Ở cõi Đâu Suất (Tusitā) chỉ nắm tay nhau thôi Chư thiên nữ cũng có thể mang thai. Trên Hoá Lạc Thiên (Nimmānarati) chỉ mỉm cười với nhau và ở cõi Tha Hóa Tự Tại (Paranimmitavasavatī) chỉ cần nhìn nhau bằng tâm dục nhiễm cũng có thể sinh con đẻ cái. Cõi càng cao thì tham dục càng ít và tuổi thọ càng lâu. Đó cũng là lý do khiến điều kiện sanh lên các cõi Dục thiên cao cấp cũng khó khăn.
Trong 3 Cõi trời dục giới đầu tiên (Tứ Thiên Vương, Dạ ma, Đâu suất) Chư thiên đều có tình nhân (quan hệ nam-nữ). Nhưng trong cõi Hóa-lạc và cõi Tha-hóa-tự-tại thì không có tình nhân. Thiên nam, Thiên nữ trong hai Thiên giới cuối, khi nào muốn hưởng dục thì tự hóa hiện ra tình nhân.
Từ cõi Đao Lợi (Tāvatiṃsā) trở lên đến cõi Dục thiên cao nhất chỉ có thuần túy là nơi cư trú của Chư thiên không có loài nào khác. Con voi riêng của Đức Đế Thích hay Ác Ma Thiên Tử thực ra chính là hai vị trời hóa hiện thành khi chủ của họ cần đến.
Người muốn về đây phải có Bát giới thanh tịnh và một đời sống ly dục nhẹ nhàng. Nên nhớ Chư thiên cõi thấp không thể nhìn thấy Chư thiên cõi cao hơn, trừ phi họ hóa hiện thô tướng.
CÕI TRỜI DỤC GIỚI - LỤC DỤC THIÊN
1
Tứ Đại Thiên Vương (Catummahārājikā)
Tên
Trú xứ
Vai trò/Vị trí
Tuổi thọ
1.1
Trì Quốc Thiên Vương (Dhataraṭṭha)
Ở hướng Đông núi Tu Di
cai quản Càn Thát Bà (Gandhabba)
500 tuổi trời (một ngày đêm bằng 50 năm cõi người) -> 9 triệu năm
1.2
Tăng Trưởng Thiên Vương (Viruḷhaka)
Ở hướng Nam núi Tu Di
cai quản nhóm Chư Thiên bụng to (Kumbhaṇḍa)
1.3
Quảng Mục Thiên Vương (Virūpakkha)
Ở hướng Tây núi Sineru
cai quản loài Rồng (Nāga)
1.4
Đa Văn Thiên Vương (Kuvera hoặc Vessuvaṇṇa)
ở hướng Bắc núi Tu Di, là người
cai quản nhóm Dạ xoa (Yakkha)
Ở cõi Tứ Thiên Vương hầu như có đủ các loài siêu đọa ở đây từ Ngạ quỷ, Bàng sanh (Súc sinh cột sống đi ngang), A-tu-la, Rồng và Kim sí điểu (garuda).
2
Đao Lợi (Tāvatiṃsā) hay còn gọi là Tettiṃsa (33 - Ba mươi ba)
Tuổi thọ
1.000 tuổi x 100 năm cõi người = 36 triệu năm cõi người
3
Dạ Ma (Yāmā)
Tuổi thọ
2.000 tuổi (một ngày đêm bằng 200 năm cõi người) -> 144 triệu năm
4
Đâu Suất (Tusitā)
Tên
##
##
Tuổi thọ
4.1
Thiên cung
4.000 tuổi (một ngày đêm bằng 400 năm cõi người) -> 576 triệu năm
4.2
Thiên sản
4.3
Thiên sắc thân
Cõi trời tầng thứ tư này là chỗ xả ly sự nhiệt não (Phiền não), và mang lại sự hoan hỷ và sự hân hoan cho những người ở trong cõi ấy. Nên cõi này được gọi là cõi thù thắng.
5
Hoá Lạc (Nimmānarati)
Tuổi thọ
Hóa Lạc tức là tự biến hóa ra Dục lạc để thụ hưởng. Chư thiên sinh trong cõi này tự hóa Ngũ dục theo ý thích của mình, rồi hân hoan thỏa thích trong các cảnh ấy.
8.000 tuổi cõi này (một ngày đêm bằng 800 năm cõi người) -> 2 tỷ 304 triệu năm.
6
Tha Hóa Tự Tại (Paranimmitavasavatī)
Tuổi thọ
Chư thiên cõi trời Tha Hóa Tự Tại thọ hưởng dục lạc do Chư thiên tầng thấp hơn phục vụ. Thiên nam, Thiên nữ trong cõi Tha Hóa Tự Tại này, khi muốn thọ hưởng Ngũ dục thì Chư thiên tầng thấp biết được ý sẽ hóa hiện theo như ý. Vì thế, tất cả Chư thiên trong cõi Tha Hóa Tự Tại không có tình nhân riêng của mình, giống như cõi Hóa Lạc vậy.
Vua cõi Tha Hóa Tự Tại là Đại Ma Vương (Devaputra Māra) - vua Cõi trời dục giới này đã cố gắng ngăn cản Đức Phật đạt được sự giải thoát khỏi vòng luân hồi vào đêm Đức Phật giác ngộ.
16.000 tuổi (một ngày đêm bằng 1.600 năm cõi người) -> 9 tỷ 216 triệu năm
Xem thêm: “Sắc giới”, “Vô sắc giới”
Cõi trời Phạm Thiên (Brahma)
Cõi trời Phạm Thiên là cõi giới của các bạc đã chứng đắc các tầng thiền (Tứ thiền bát định)
Công đức
Công đức = Thập thiện
Huân tập Công đức là thực hành 10 điều thiện lành (thọ trì 10 giới):
Không sát sanh
Không trộm cắp (lấy của không cho)
Không tà dâm (tà hành trong các dục)
Không nói láo, nói dối
Không nói hai lưỡi
Không nói lời độc ác
Không nói lời phù phiếm (hý luận)
Không tham (tham dục, Dục ái)
Không sân (sân hận, sân ưu)
Không si (có Chánh kiến/Chánh tri kiến, có Chánh tư duy)
Chánh niệm tới đâu công đức tới đó. Chết trong Chánh niệm sẽ được tái sinh trong cảnh giới của các Chư thiên (Cõi trời). Vì sao? Vì Chánh niệm khắc kỵ với Phiền não, trong khi đó Phiền não là nguyên nhân tập khởi lên Nghiệp thiện/ác (Khổ tập đế, phi công đức).
Phước đức hữu lậu và Công đức vô lậu
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói: "Nếu có người ngồi thiền trong một khoảnh khắc, thì công đức nhiều hơn xây hằng sa bảo tháp."
Chưa Công viên Quả mãn thì dù Trí nhiều như đất, Phước nhiều như biển thì cũng không thể chứng đắc
Cư trần lạc đạo
"Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền".
Bản dịch:
"Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn nhọc ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.”
D
Danh
Danh là tinh thần, là những hiện tượng phi hình tướng (vô hình)
Danh sắc: Danh là Tâm, Sắc là Thân.
Danh sắc gồm có vật lý + sinh lý + tâm lý, trong đó vật lý là Sắc, sinh lý và tâm lý là Danh. Danh là yếu tố tinh thần, sắc thuộc phạm trù vật chất.
Danh pháp
Mi-lan-đà: “Đại đức đã nói đến Danh-Sắc, vậy cái gì là Danh, cái gì là Sắc?
Na-tiên: “Phàm vật gì có hình tướng (hữu hình), mắt thấy được, sờ nắm được, xúc chạm được thì cái ấy được gọi là Sắc pháp. Cái gì vô hình, có tính trừu tượng như Tâm vương, Tâm sở... thuộc ý niệm, tư tưởng... thì gọi là Danh pháp.”
Mi-lan-đà: Tại sao các danh pháp thì có tạo tác đến đời sau còn sắc pháp thì không?
Na-tiên: “Chẳng phải thế đâu, tâu đại vương! Hai pháp Danh và Sắc này tương quan tương liên với nhau. Danh phải nương gá vào Sắc, Sắc phải nương nhờ vào Danh mới hiện hữu để cấu tạo thành một sinh mạng (pháp). Chúng luôn luôn nương gá lẫn nhau, không từng lìa nhau bao giờ.”
Mi-lan-đà: “Xin cho nghe ví dụ.”
Na-tiên: “Ví như một cái phôi trứng, ban đầu nó trong và ướt, sau đó nó đặc sệt, dần dần tượng hình thành quả trứng rồi nở thành chim, thành con gà. Cái phôi thai ban đầu ấy sở dĩ có được là do nhờ Thức tái sanh (Danh) nương gá vào sắc chất (Sắc) của gà mà tạo nên mầm sống. Trong mầm sống ấy đã có Danh và Sắc nương gá lẫn nhau, tương quan tương liên với nhau, đồng sanh, đồng hiện hữu đã từ vô thủy đến nay rồi, trải qua thời gian dài vô tận.”
Danh-Sắc (Nāma-Rūpa)
Danh sắc: Danh là Tâm, Sắc là Thân. Thân-Tâm = Danh-Sắc
Sắc là vật chất, là những vật thể có hình tướng (hữu hình). Danh là tinh thần, là những hiện tượng phi hình tướng (vô hình).
Danh sắc gồm có vật lý + sinh lý + tâm lý, trong đó vật lý là Sắc, sinh lý và tâm lý là Danh. Danh là yếu tố tinh thần, sắc thuộc phạm trù vật chất.
Mi-lan-đà: “Đại đức đã nói đến Danh-Sắc, vậy cái gì là Danh, cái gì là Sắc?
Na-tiên: “Phàm vật gì có hình tướng (hữu hình), mắt thấy được, sờ nắm được, xúc chạm được thì cái ấy được gọi là Sắc pháp. Cái gì vô hình, có tính trừu tượng như Tâm vương, Tâm sở... thuộc ý niệm, tư tưởng... thì gọi là Danh pháp.”
Mi-lan-đà: Tại sao các Danh pháp thì có tạo tác đến đời sau còn Sắc pháp thì không?
Na-tiên: “Chẳng phải thế đâu, tâu đại vương! Hai pháp Danh và Sắc này tương quan tương liên với nhau. Danh phải nương gá vào Sắc, Sắc phải nương nhờ vào Danh mới hiện hữu để cấu tạo thành một sinh mạng (pháp). Chúng luôn luôn nương gá lẫn nhau, không từng lìa nhau bao giờ.”
Mi-lan-đà: “Xin cho nghe ví dụ.”
Na-tiên: “Ví như một cái phôi trứng, ban đầu nó trong và ướt, sau đó nó đặc sệt, dần dần tượng hình thành quả trứng rồi nở thành chim, thành con gà. Cái phôi thai ban đầu ấy sở dĩ có được là do nhờ Thức tái sanh (Danh) nương gá vào sắc chất (Sắc) của gà mà tạo nên mầm sống. Trong mầm sống ấy đã có Danh và Sắc nương gá lẫn nhau, tương quan tương liên với nhau, đồng sanh, đồng hiện hữu đã từ vô thủy đến nay rồi, trải qua thời gian dài vô tận.”
Danh-Sắc = Tâm-Tướng
Danh và Sắc nương gá vào nhau để tồn tại nên chúng tương tợ và tương tác hữu cơ với nhau -> Vô thường - Khổ - Vô ngã
“Tướng tùng Tâm sanh, Tướng tùng Tâm diệt”
“Tâm (Nghiệp nhân) sinh Tướng (Nghiệp quả)”
Xem thêm “Hỷ-Lạc”
Diệt đế (Nirodha)
Diệt đế là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau, đoạn trừ được nguyên nhân gây nên khổ đau, bất đắc như ý.
Đoạn trừ cái gì? Đoạn trừ/xả ly Tam ái (Dục ái, Hữu ái và Phi hữu ái), là ly tham, là không chấp thủ.
“Này các Tỳ kheo, thế nào là đặt gánh nặng xuống? Ðây là sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn, sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không chấp thủ. Này các Tỳ kheo, đây gọi là đặt gánh nặng xuống.”
Diệt Đế - chân lý thâm diệu thứ ba - là sự chấm dứt toàn vẹn mọi hình thức Khổ - tức Niết Bàn - mục tiêu cứu cánh của người Phật tử. Mục tiêu này phải được thành tựu bằng cách tận diệt Ái.
Chân lý Diệt Đế này phải được chứng ngộ bằng cách trau dồi Bát Thánh Đạo (Bát Chánh Đạo). Đó là con đường duy nhất (Đạo Đế) dẫn đến Níp-bàn. Con đường này tránh xa cực đoan ép xác khổ hạnh - làm suy giảm trí thức, và cực đoan lợi dưỡng - làm chậm trễ mọi tiến bộ tinh thần.
12 Nhân Duyên khởi theo chiều thuận là Tập khởi (tập khởi, huân tập vô minh, phiền não khổ đau…) -> Tập đế
12 Nhân Duyên khởi theo chiều nghịch là Đoạn diệt (đoạn diệt vô minh, phiền não khổ đau…) -> Diệt đế
Xem “Tứ diệu đế”
Duy tác
Tâm duy tác là tư duy và hành động (Tưởng+Hành) tùy thuận theo tự nhiên, vì lòng từ bi (vị tha) chứ không phải vì Bản ngã (vị kỷ, vì động cơ Tham-Sân-Si-Mạn-Nghi-Ác kiến của cá nhân).
Duy thức tông
Duy thức tông = Duy thức học
Xem thêm: “Thập đại luận sư”
Duy tâm
Duy tâm = Duy thức
Chấp vào Duy vật hay Duy tâm đều là Tà kiến vì nhờ có Danh (Tâm) và Sắc (Thân) nương gá vào nhau mới tập khởi lên vạn pháp.
Duy vật
Chấp vào Duy vật hay Duy tâm đều là Tà kiến vì nhờ có Danh (Tâm) và Sắc (Thân) nương gá vào nhau mới tập khởi lên vạn pháp.
Duyên (Pratīya, Pratyayā, Paccayā)
Duyên là điều kiện, là tác nhân, là xúc tác, là mối liên quan/tương liên (Duyên hệ)… giúp hình thành (Duyên khởi, Duyên sinh) và đoạn diệt/trừ (Duyên diệt) các pháp.
Thuận theo tự nhiên = Tùy duyên thuận pháp, nương theo quy luật mà ứng xử và hành động.
Trái với tự nhiên = Muốn vạn pháp vận hành theo ý muốn chủ quan (Bản ngã) của mình
Liên quan: Duyên khởi, Duyên sinh, Duyên diệt, Duyên hợp, Duyên tan, Trợ duyên, Thuận duyên, Nghịch duyên, Chướng duyên, Tùy duyên thuận pháp, Vạn sự từ duyên
Mi-lan-đà: “Có trường hợp nào mà một người làm việc ác lớn, tội báo lại nhỏ; còn một người làm việc lành nhỏ, phước báo lại lớn không, đại đức?”
Na-tiên: “Có chứ, và chuyện ấy cũng thường thường xảy ra.”
Mi-lan-đà: “Vậy là không đúng với Quy luật nhân quả chăng? Luật nhân quả bảo rằng gieo hạt mè nhỏ thì được hạt mè nhỏ, gieo hạt bí to thì được quả bí to?”
Na-tiên: “Đúng là thế. Nhưng nếu hạt mè kia nhiều phân, có nước, nhổ cỏ dại, chăm cào xới, nhổ tỉa cây dày thì hạt sẽ lớn hơn một tí chứ?”
Mi-lan-đà: “Đúng thế.”
Na-tiên: “Còn hạt bí to kia gieo nơi đất sỏi đá khô cằn, chẳng phân nước, chẳng chăm sóc thì quả bí chắc hẳn sẽ còn tí teo như quả cà?”
Mi-lan-đà: “Đúng vậy.”
Na-tiên: “Cũng vậy là gieo nhân, nhưng còn Trợ duyên, Thuận duyên, Nghịch duyên hay Chướng duyên góp phần vào nhân ấy mới quyết định quả được. Một người làm việc dữ nhưng suốt ngày đêm ăn năn, hối hận, luôn luôn cảm thấy khó chịu, bứt rứt... nên nguyện từ rày về sau không dám làm việc ác nữa. Chính nhờ tâm người ấy ăn năn hối cải nên cái quả báo, tội báo sẽ nhẹ đi, nhỏ đi. Đấy là trường hợp nhân việc ác lớn mà quả tội báo lại nhỏ. Một người làm việc lành nhỏ nhưng tâm lại hoan hỉ, thỏa thích; suốt ngày, suốt tháng an vui, mát mẻ với chút ít việc lành ấy thì phước quả của nó chắc chắn là to lớn lắm, tâu đại vương!”
Mi-lan-đà: “Đại đức kể cho nghe một trường hợp cụ thể.”
Na-tiên: “Vâng, thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài gặp một tội nhân bị chặt cụt cả tay cả chân, miệng ngậm một cành hoa sen với tác ý thành kính dâng cúng cho ngài. Sau khi thọ nhận, đức Phật quay lại bảo với các tỳ kheo rằng: nhờ phước đức này mà trong suốt chín mươi mốt kiếp sắp tới, người bị cụt tay chân kia khỏi bị đọa vào ba đường dữ, được sanh lên cõi trời hưởng hết phước báu mới sanh lại làm người. Bởi vậy cho nên chuyện nhân quả xảy ra trên thế gian này nó muôn mặt, muôn chiều, chứ không đơn giản như phàm nhân hiểu đâu! Điều lành nhỏ phước quả lớn, điều ác lớn tội báo nhỏ - mà ngược lại như thế cũng thường có đấy, tâu đại vương!”
Dục thủ là muốn có dục nhưng không được (Cầu bất đắc khổ) -> Tham, Sân-Ưu
Dục thủ là có dục rồi nhưng giữ không được, không duy trì được (Hoại khổ, Chấp khổ) -> Tham, Sân-Ưu
“Còn duyên thì ta đến, hết duyên thì ta đi
Còn thương thì ta kiếm, hết thương thì ta xa
***Duyên = Dục***
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng”
Coi chừng Cái dục nấp đằng sau Cái duyên!
Tứ duyên
Tứ duyên là 4 điều kiện, 4 yếu tố tạo điều kiện cho các pháp sinh khởi.
Nhân-Duyên (Pratyayā Hetu): Tất cả pháp từ thế giới nội tại cho đến thế giới khách quan, không có sự sinh khởi nào độc lập ngoài quan hệ Nhân-Duyên. Nhân (Hetu) là năng lực tác động, Duyên (Pratīya) là điều kiện giúp đỡ, để cho năng lực tác động ấy được sinh khởi và hình thành.
Đẳng vô gián duyên (Anantara Pratīya): hay còn gọi là Thứ đệ duyên, nghĩa là tất cả các pháp làm Nhân, làm Duyên cho nhau một cách liên tục, không bị gián cách. Hay nói khác đi, Pháp trước làm Nhân cho pháp sau, pháp sau làm Duyên cho pháp trước, các pháp cứ tuần tự làm Nhân, làm Duyên cho nhau như vậy mà sinh khởi liên tục (trùng trùng duyên khởi). Do đó gọi là Đẳng vô gián duyên hay là Thứ đệ duyên.
Sở duyên duyên (Ālambana Pratītya): nghĩa là Duyên và Sở duyên (những thứ/điều thuộc về Duyên). Duyên là Pratītya và Sở duyên là Ālambana. Ālambana đi từ động từ căn là “lam” có nghĩa là leo, vin vào, dựa vào, nương vào, gá vào, tựa vào, vướng vào. Nói tóm lại, cái nào có khả năng dẫn sinh sự phân biệt, và sự phân biệt ấy mang ảnh tượng tương tợ với chúng thì cái ấy gọi là Duyên và Sở duyên, hay gọi là Sở duyên duyên (Ālambana Pratītya).
Tăng thượng duyên (Adhipapeyam Pratīya): Là Duyên tăng thêm sự sinh khởi cho các pháp một cách nhanh chóng từ Nhân đến Quả.
Tăng thượng duyên gồm có Thuận duyên và Nghịch duyên.
Thuận duyên là Duyên hỗ trợ và tác động một cách tích cực để cho các pháp sinh khởi một cách nhanh chóng từ Duyên đến Quả.
Nghịch duyên là duyên làm đối kháng sự sinh trưởng của Nhân.
Mọi pháp có thể sinh khởi, tồn tại hay hủy diệt đều lệ thuộc vào 4 duyên này. Ở trong bốn duyên này thì Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên, Đẳng vô gián duyên là Biệt tướng, còn Nhân duyên là Tổng tướng.
“Tùy Duyên thuận Pháp”, “Chư pháp tùng duyên sanh, Diệc tùng nhân duyên diệt”,
“Chư pháp tùng duyên sanh, diệc tùng nhân duyên diệt” - Các pháp do duyên hợp (nhân duyên) mà được sinh ra, cũng vì nhân duyên (duyên tan, tùy duyên) mà bị hoại diệt
47 DUYÊN (PACCAYO)
1. Hetupaccayo - Nhân duyên
2. Ārammaṇapaccayo - Cảnh duyên
3. Ārammaṇādhipatipaccayo - Cảnh trưởng duyên
4. Sahajātādhipaccayo - Câu sanh trưởng duyên
5. Anantarapaccayo - Vô gián duyên
6. Samanantarapaccayo - Đẳng vô gián duyên
7. Sahajātapaccayo - Câu sinh duyên
8. Aññamaññapaccayo - Hỗ tương duyên
9. Sahajātanissayapaccayo - Câu sanh y duyên
10. Vatthupurejātanissayapaccayo - Vật tiền sinh y duyên
11. Vatthārammaṇapurejātanissayapaccayo - Vật cảnh tiền sanh y duyên
12. Ārammaṇūpanissayapaccayo - Cảnh cận y duyên
13. Anantarūpanissayapaccayo - Vô gián cận y duyên
14. Pakatūpanissayapaccayo - Thường cận y duyên
15. Vatthupurejātapaccayo - Vật tiền sinh duyên
16. Ārammaṇapurejātapaccayo - Cảnh tiền sanh duyên
17. Pacchājātapaccayo - Hậu sanh duyên
18. Āsevanapaccayo - Trùng dụng duyên
19. Sahajātakammapaccayo - Câu sinh nghiệp duyên
20. Nānakkhaṇikakammapaccayo - Dị thời nghiệp duyên
21. Vipākapaccayo - Dị thục quả duyên
22. Rūpa āhārapaccayo - Sắc vật thực duyên
23. Nāma āhārapaccayo - Danh vật thực duyên
24. Sahajātindriyapaccayo - Câu sinh quyền duyên
25. Purejātindriyapaccayo - Tiền sanh quyền duyên
26. Rūpajīvitindriyapaccayo - Sắc mạng quyền duyên
27. Jhānapaccayo - Thiền na duyên
28. Maggapaccayo - Đồ đạo duyên
29. Sampayuttapaccayo - Tương ưng duyên
30. Sahajātavippayuttapaccayo - Câu sinh bất tương ưng duyên
31. Vatthupurejātavippayuttapaccayo - Vật tiền sinh bất tương ưng duyên
32. Vatthārammaṇapurejātavippayuttapaccayo - Vật cảnh tiền sinh bất tương ưng duyên
33. Pacchājātavippayuttapaccayo - Hậu sinh bất tương ưng duyên
34. Sahajātatthipaccayo - Câu sinh hiện hữu duyên
35. Ārammaṇapurejātatthipaccayo - Cảnh tiền sinh hiện hữu duyên
36. Vatthupurejātatthipaccayo - Vật tiền sinh hiện hữu duyên
37. Pacchājātatthipaccayo - Hậu sinh hiện hữu duyên
38. Āhāratthipaccayo - Vật thực hiện hữu duyên
39. Indriyatthipacccayo - Quyền hiện hữu duyên
40. Natthipaccayo - Vô hữu duyên
41. Vigatapaccayo - Ly khứ duyên
42. Sahajāta avikhatapaccayo - Câu sinh bất ly duyên
43. Ārammaṇapurejāta avigatapaccayo - Cảnh tiền sinh bất ly duyên
44. Vatthupurejāta avigatapaccayo - Vật tiền sinh bất ly duyên
45. Pacchājāta avigatapaccayo - Hậu sanh bất ly duyên
46. Āhāra avigatapaccayo - Vật thực bất ly duyên
47. Indriya avigatapaccayo - Quyền bất ly duyên
Xem thêm: “Duyên khởi”, “Duyên diệt”, “Nhân-Duyên”, “Trợ duyên”, “Thuận duyên”, “Nghịch duyên”, “Sở duyên”, “Tăng thượng duyên”, “Đẳng vô gián duyên”, “”, “”, “”
Duyên diệt
Tánh không (Tính bát nhã) là cái thấy biết của Trí tuệ bát nhã, thấy rằng các pháp đều là hữu vi, do duyên hợp mà thành (giả hợp). Tánh không là không có Thực tướng mà chỉ có Tướng duyên hợp. Vạn pháp khi đủ duyên thì tập khởi, hết duyên thì đoạn diệt (Pháp hữu vi).
“Vạn vật trong vũ trụ đều được cấu tạo bởi những thứ không phải là nó”.
Hiểu Tánh không là không có gì, tất cả đều là không (hư vô) là Tà kiến. Vạn pháp sinh diệt (có-không) theo nhân duyên. Hiểu rằng “tất cả đều là không” như vậy là Chấp không (chỉ thấy Duyên diệt mà không thấy Duyên sinh), là chỉ nhìn được một phía (Biên kiến).
“Thà Chấp có bằng núi Tu di, chứ đừng nên Chấp không dù chỉ bằng hạt cải."
Duyên hệ (Paccayā)
Duyên hệ là mối liên quan (Paccayā), chuỗi nhân duyên giữa các pháp
Duyên hợp
Pháp hữu vi = Pháp duyên khởi = Pháp duyên hợp = Pháp nhân duyên = Pháp điều kiện = Pháp sinh diệt = Pháp vô thường = Pháp vô ngã
Pháp vô vi có 3 đặc tính (tính chất) là Vô thường, Khổ, Vô ngã
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu, không như thuỷ nguyệt
Vật trước hữu không không.”
—
“Có thì muôn sự Có
Không thì tất cả Không
Có-Không trăng đáy nước
Đừng mắc Có cùng Không.”
Duyên khởi (Paṭicca Samuppāda)
Duyên khởi = Pháp duyên khởi = Tiến trình duyên hệ = 12 Nhân Duyên = Pháp Duyên sinh Duyên diệt
Duyên khởi là Duyên Sinh-Diệt-Hợp-Tan (Duyên sinh, Duyên diệt, Duyên hợp, Duyên tan)
Duyên sinh duyên khởi (Pháp duyên khởi, Thập nhị Nhân Duyên, liên quan tương sinh, tương liên) tức là cái này có thì cái kia có, cái này diệt thì cái kia diệt, cái này sinh thì cái kia tập khởi, cái này đoạn thì cái kia diệt.
Vô minh (Avijjā) duyên Hành (Saṅkhāra)
Hành duyên Thức (Viññāṇa)
Thức duyên Danh-Sắc (Nāmarūpa)
Danh Sắc duyên Lục nhập (Salāyatana)
Lục nhập duyên Xúc trần (Phassa)
Xúc trần duyên Thọ (Vedanā)
Thọ duyên Ái (Taṇhā)
Ái duyên Thủ (U pādāna)
Thủ duyên Hữu
Hữu duyên Sinh
Sinh duyên Lão-Bệnh-Tử
Lão-Bệnh-Tử duyên Vô minh
Kết quả của Vòng luân hồi này là Sầu-Bi-Khổ-Ưu não (Khổ não, Phiền não)
12 Nhân Duyên khởi theo chiều thuận là Tập khởi (tập khởi, huân tập vô minh, phiền não khổ đau… -> Tập đế)
12 Nhân Duyên khởi theo chiều nghịch là Đoạn diệt (đoạn diệt vô minh, phiền não khổ đau… -> Diệt đế)
Hết vô minh thì Hành (Thân-Khẩu-Ý) dừng tạo nghiệp (Thức tái sinh, Nghiệp thức đoạn diệt).
Thức ăn của Vô minh là Lậu hoặc, thức ăn của Lậu hoặc là Vô minh -> Luân hồi (quan hệ tương hỗ)
Tương sinh tương khắc
Mỗi uẩn trong Ngũ uẩn là một tập uẩn. Do là Vô ngã (không thể tồn tại độc lập được) nên từng Uẩn thành phần này phải nương gá vào những Uẩn khác để cộng sinh và bảo vệ nhau theo mối quan hệ tương hỗ, có qua có lại (cái này sinh nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt). -> Chuỗi liên minh ma quỷ!
Hành sinh do Vô minh (Vô minh có nên Hành có) nên Vô minh dung dưỡng, che chở, bảo vệ Hành giống như Mẹ đối với Con. Ngược lại, Hành cũng làm những điều tốt đẹp để báo đáp, củng cố, làm thỏa mãn Vô minh. Như vậy Vô minh sinh Hành cũng là để củng cố cho chính bản thân nó. Nói theo phương diện y học thì Hành là kháng thể của Vô minh nên Vô minh sinh Hành là để làm kháng thể bảo vệ cho mình.
Vô minh cũng chấp thủ, nó không muốn bị đoạn diệt nên bằng mọi giá nó phải sinh ra Hành để khỏi bị diệt.
Thức sinh do Hành (Hành có nên Thức có) nên Hành dung dưỡng, che chở, bảo vệ Thức giống như Mẹ đối với Con. Ngược lại, Thức cũng làm những điều tốt đẹp để báo đáp, củng cố, làm thỏa mãn Hành. Như vậy Hành sinh Thức cũng là để củng cố cho chính bản thân nó. Nói theo phương diện y học thì Thức là kháng thể của Hành nên Hành sinh Thức là để làm kháng thể bảo vệ cho mình.
Hành cũng chấp thủ, nó không muốn bị đoạn diệt nên bằng mọi giá nó phải sinh ra Thức để khỏi bị diệt.
Danh-Sắc sinh do Thức (Thức có nên Danh-Sắc có) nên Thức dung dưỡng, che chở, bảo vệ Danh-Sắc giống như Mẹ đối với Con. Ngược lại, Danh-Sắc cũng làm những điều tốt đẹp để báo đáp, củng cố, làm thỏa mãn Thức. Như vậy Thức sinh Danh-Sắc cũng là để củng cố cho chính bản thân nó. Nói theo phương diện y học thì Danh-Sắc là kháng thể của Thức nên Thức sinh Danh-Sắc là để làm kháng thể bảo vệ cho mình.
Thức cũng chấp thủ, nó không muốn bị đoạn diệt nên bằng mọi giá nó phải sinh ra Danh-Sắc để khỏi bị diệt.
Paṭicca Samuppāda (Liên Quan Tương Sinh / Thập Nhị Nhân Duyên) trong Tương Ưng Bộ Kinh:
“Đau khổ dẫn đến Tín (Saddhā);
Tín dẫn đến Vui thích (Hoan hỷ, Pāmojja);
Vui thích dẫn đến Hỷ Lạc (Pīti);
Hỷ dẫn đến Tịch tịnh (Khinh an, Passaddhi);
Tịch tịnh (Khinh an) dẫn đến An lạc (Sukha, hạnh phúc xuất thế gian);
An lạc dẫn đến Định (Samādhi);
Định dẫn đến Tri và Kiến đượ Thực/Chân tướng của vạn vật (Yathābhūta-ñāṇadassana, Như thị tri kiến);
Tri kiến chân tướng của sự vật dẫn đến khước từ, Chán nản (Nibbidā);
Chán nản dẫn đến Không luyến ái (Virāga);
Không luyến ái dẫn đến Giải thoát (Vimutti);
Giải thoát dẫn đến dập tắt mọi Ái (Taṇhakkhaya), tức là Đạo quả vô sanh (A-la-hán)”.
ĐỊNH NGHĨA
THÀNH PHẦN
CƠ CHẾ
PHÁP TU (PHÁP ĐỐI TRỊ)
Vô minh (4)
Vô minh là không rõ thấy rõ biết các Pháp đang diễn ra trong Thân và Tâm (Thực tướng) -> Nhìn thấy rõ Ngũ uẩn (đang Thọ, Tưởng, Hành, Thức gì), Nhân-Duyên - Quả-Nghiệp (duyên sinh duyên diệt, Thập nhị nhân duyên) đang vận hành ra sao…
Vô minh (1) Lậu hoặc (3)
Vô minh kỵ với Chánh tri kiến, có CTK thì hết VM. VM nhiều hay ít tùy thuộc vào mức độ CTK. Để thấu triệt được Bát chánh đạo và Tứ thánh đế thì điều tiên quyết là CTK.
Thiền quán (Thiền minh sát) -> Bắt buộc vì là pháp duy nhất nhận ra VM.
BCĐ (Tuệ): Chánh kiến & Chánh tư duy.
Kinh Tứ Diệu Đế (Thánh trí về Khổ, Tập, Diệt, Đạo).
7 pháp đoạn trừ Lậu hoặc
Hành (3)
Hành nghiệp qua Thân, Khẩu, Ý
BCĐ (Giới): Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.
Thức
BCĐ (Định): Chánh định -> Thiền định (Diệt Thọ-Tưởng định) -> tầng thiền thứ 9
Danh - Sắc (9)
Thân (4), Tâm (5)
BCĐ (Định): Chánh niệm trên Thân và Tâm (Thiền quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp)
Lục nhập (6)
Thu thúc Lục căn, Thủ hộ 6 căn
Xúc trần (6)
Tránh duyên
BCĐ (Định): Chánh định -> Thiền định (Diệt Thọ-Tưởng định) -> tầng thiền thứ 9
Bên ngoài thì Tránh duyên, bên trong thì Chánh định
Thọ (108)
Cảm giác là cảm thọ của Thân, cảm xúc là cảm thọ của Tâm
BCĐ (Định): Chánh định -> Thiền định (Diệt Thọ-Tưởng định) -> tầng thiền thứ 9
Ái (3)
Sắc ái, Thanh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái
Thủ (4)
Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã luận thủ
Hữu (3)
Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu
Sinh (1)
Lão - Bệnh - Tử
Lão-Bệnh-Tử (khổ), muốn không L-B-T thì đừng có Sinh, muốn không Sinh thì đừng Hữu, muốn không Hữu thì đừng Thủ, muốn không Thủ thì đừng Ái, muốn không Ái thì đừng Thọ, muốn không Thọ thì đừng Xúc, muốn không Xúc thì đừng Lục nhập, muốn không Lục nhập thì đừng Danh-Sắc, muốn không Danh-Sắc thì đừng Thức, muốn không Thức thì đừng Hành, muốn không Hành thì đừng Vô minh và Lậu hoặc. -> Đừng = Pháp tu
…
Ý thức (Tâm thức, Thức ấm) luôn xuất hiện trong các vòng luân hồi. Có Thức thì Căn sẽ sinh (Thức duyên Danh-Sắc). Chiếu theo ĐL bảo toàn năng lượng thì “Thức không mất đi mà nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác”, tùy Duyên mà Thức khởi, tùy Duyên thuận Pháp. -> Gieo duyên lành (Nhân) để có Thức tốt (Quả) bằng cách tu tập.
Trùng trùng duyên khởi: Nội trong một kiếp đã có vô lượng Thức. Chỉ một đối tượng (Trần cảnh) đã sinh ra biết bao nhiêu là Thức. Số lượng Thức trong một kiếp là bội số của Trần cảnh xảy ra trong kiếp đó. Tiếp theo là Thức của Kiếp hộ sinh này lại duyên với Thức của vô lượng kiếp sống trước đó.
Không chú ý tới Tướng riêng (Biệt tướng) mà cũng chẳng chú ý tới Tướng chung (Tổng tướng) -> Căn-Trần-Thức không duyên thành Tâm sở xúc -> Xả thọ -> Tưởng và Hành cũng đoạn theo -> Pháp trần không xuất hiện -> Ý thức không sinh khởi do Ý căn không còn đối tượng là Pháp trần nữa -> Căn-Trần-Thức bị triệt tiêu thì Xúc (Tâm sở xúc) không sinh khởi -> Xúc không có thì lấy đâu ra Thọ-Tưởng-Hành (Pháp trần)... -> Chiều đoạn diệt của 12 Nhân Duyên.
Kiến giải 12 Nhân Duyên
Vô minh duyên/sinh Hành: do Vô minh lậu (Tập quán Nghiệp, Dục tâm, Dục lậu, Hữu lậu) nên Tâm luôn hướng ra ngoài chạy theo tầm cầu Dục cảnh (Căn-Trần-Thức). Vô số Trần cảnh thì sinh ra vô vàn Thọ (yêu ghét, lạc khổ). Vô vàn Thọ thì khởi sinh lên trùng trùng các phản ứng Tâm (Hành). Quá trình từ Thọ khởi lên Hành có sự giúp sức của Tưởng khiến phản ứng Tâm càng mạnh mẽ (Thọ-Tưởng-Hành). Phản ứng Tâm càng mạnh mẽ thì tạo lên vô số Nghiệp thiện và Nghiệp ác (Tâm tạo tác). Hành càng mạnh thì Vô minh càng được củng cố. Càng vô minh thì số vòng sinh tử luân hồi, thời gian lăn trôi trong Tam giới của chúng sinh càng nhiều và càng lâu. Đây chính là công dụng của Vô minh.
Hành duyên/sinh Thức: Hành là phản ứng Tâm, Thức là một dòng chảy bất tận từ vô thỉ với vô chung. Giống như mặt trời, Hành là những phản ứng nhiệt hạch giúp mặt trời sản sinh ra nguồn năng lượng vô tận. Hành càng nhiều, càng mạnh thì dòng chảy Thức càng cuồn cuộn. Hành và Thức muốn tồn tại thì phải tương hỗ, dung dưỡng nhau. Quả của Tâm tạo tác (Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp) được cập nhật tức thời vào Thức hộ sinh hay còn gọi là Nghiệp thức (thái độ + hành vi = ý thức).
Do không thấu hiểu được giáo lý Duyên khởi nên trong tấm của các chúng sanh nảy sinh nên các loại Tà kiến (kiến giải sai lệch về Chân lý, nhìn nhận méo mó các hiện tượng trong vũ trụ). Duyên khởi lý giải quy luật Nhân-Quả-Duyên-Nghiệp, luân hồi và Tam tướng/Tam pháp ấn (Vô thường - Khổ - Vô ngã ) của vạn pháp; đồng thời cũng vạch ra con đường giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Giáo lý Duyên khởi cũng chứa đựng trọn vẹn tinh thần của giáo lý Tứ diệu đế. Do vậy, người am tường Tứ diệu đế thì cũng thấu hiểu rốt ráo Duyên khởi và ngược lại. Chỉ có bậc thánh A-la-hán thì mới am tường rốt ráo TDĐ và Duyên khởi.
Để thấu hiểu rốt ráo TDĐ và Duyên khởi thì hành giả cần phải có 3 loại trí tuệ:
Duyên sanh/sinh
“Chư pháp tùng duyên sanh, chư pháp tùng duyên diệt” - Các pháp do duyên hợp (nhân duyên) mà được sinh ra, cũng vì nhân duyên (duyên tan, tùy duyên) mà bị hoại diệt.
Dục
Dục là tầm cầu, tìm kiếm sự thỏa mãn nhu cầu ham muốn của 6 giác quan (Lục căn) gồm có Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý bằng Lục trần gồm Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Lục dục gồm có Sắc dục, Thanh dục, Hương dục, Vị dục, Xúc dục, Pháp dục.
Pháp dục là cái tâm tầm cầu chân lý giác ngộ nên là thiện chứ không phải bất thiện. Pháp dục hướng thượng này khác với Pháp dục hạ liệt (đối tượng dục của Ý căn đối với Pháp trần).
Dục trong thế gian: Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy (Ngũ dục)
Thất tình Lục dục
“Thiểu dục tri túc”, “Ly dục sinh hỷ lạc”
Thiểu dục - Ly dục - Đoạn dục - Tuyệt dục
Viễn ly - Xả ly - Đoạn diệt - Dứt bỏ
DỤC GIỚI
SẮC GIỚI
VÔ SẮC GIỚI
Cõi người
Chư thiên
Dục vật chất
Sắc (Thân): Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp ở mức Thô
Sắc (Thân): Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp ở mức Tế
mùi hương, hào quang, sắc đẹp, lâu đài
N/A
Dục tinh thần
Danh (Tâm): quyền lực, danh giá
thần lực
tĩnh tịnh, thần lực
Dục vật chất
-> “Phường giá áo túi cơm” để chỉ những người có hệ tư tưởng nặng về vật chất mà không/ít quan tâm tới phẩm giá, luân lý, đạo lý.
Dục tinh thần:
Dục thủ là muốn có dục nhưng không được (Cầu bất đắc khổ) -> Tham, Sân-Ưu
Dục thủ là có dục rồi nhưng giữ không được, không duy trì được (Hoại khổ, Chấp khổ) -> Tham, Sân-Ưu
“Còn duyên thì ta đến, hết duyên thì ta đi
Còn thương thì ta kiếm, hết thương thì ta xa
***Duyên = Dục***
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng”
Coi chừng Cái dục nấp đằng sau Cái duyên!
Dục hạ liệt (mong muốn thỏa mãn dục vọng) >< Dục cao thượng (ước nguyện, mong cầu quốc thái dân an).
Kiếm tiền chưa hẳn phải là Dục. Kiếm tiền để thỏa mãn dục vọng cá nhân thì là Dục, là tư lợi vị kỷ. Kiếm tiền một mặt để giải quyết nhu cầu cá nhân, mặt khác giúp người khác có công ăn việc làm là Lợi tha. Tâm càng rộng lớn thì vị tha càng lớn (Bồ tát -> Ma-ha-tát)
Diệt dục chính là diệt Pháp nhị nguyên
Tu tập chính là ly dục, là đoạn dục, là diệt Dục ái (Bồ tát Siddhartha đi theo cách này) - về bản chất chính là diệt Pháp ái (Pháp hữu ái và Pháp phi hữu ái) - tức là diệt yêu-ghét, thích-không thích, khen-chê, tìm kiếm-trốn chạy… cũng tức là diệt Pháp nhị nguyên (Pháp hữu vi).
Sinh-Tử (hợp-tan, hội tụ-phân rã), luân hồi (đảo chiều, xoay cực, thăng trầm, sướng khổ) là Pháp hữu vi, là Pháp nhị nguyên vậy nên suy ra đoạn/diệt Dục ái chính là diệt Pháp luân hồi, đoạn Pháp sanh tử.
Đoạn diệt luân hồi sinh tử tức là đắc Niết-bàn, Niết-bàn là Pháp không sinh không diệt (Pháp vô vi), là vô cực, là infinity - tức là không Ái-Thủ-Hữu (mắc kẹt) vào bất kỳ thái cực (pháp, cõi giới, hình tướng/Sắc tướng, Sắc pháp) nào cả. Không hiện hữu ở đâu cả thì cũng chẳng là gì cả, không hiện hữu vào trong ai thì cũng chẳng là ai cả. Và không là ai cả, không ở đâu cả chính là Vô ngã (Nam tông), là Tánh không (Bắc tông).
Vũ trụ này là gì? Vũ trụ chẳng là cái gì cả vì nó là tất cả, là vạn pháp thể nhập, là nhất thể (bất nhị). Là tất cả thì đâu còn cực nọ cực kia, đâu còn trong-ngoài, đâu có không/thời gian (phi thời không), đâu còn đi-đến (Như Lai).
Suy ra Niết bàn = Vũ trụ và ta đang ở trong Vũ trụ rồi mà vẫn ngó nghiêng đi tìm Niết bàn :)
Vậy tu tập là trở về là Vũ trụ, trở lại Pháp vô vi, thể nhập vào vạn pháp -> thấy Pháp vô vi là thấy Phật (thấy pháp là thấy Ta). Vũ trụ (Niết-bàn) là bất sinh bất diệt, là vô thỉ vô chung, là vân vân, là etecera… chỉ có các hiện tượng (Pháp hữu vi) trong Vũ trụ là sinh-diệt, hợp-tan.
Người đắc Hữu dư y Niết bàn là ai? Là người vẫn đang mang Thân/Sắc người nhưng Tâm/Danh đã thể nhập vào vạn pháp (vũ trụ).
Như vậy, Vũ trụ (Niết bàn) được hình thành bởi những Pháp hữu vi. Các Pháp hữu vi nương gá vào nhau mà tập khởi lên các Pháp hữu vi mới. Các Pháp hữu vi liên kết chuỗi (lũy thừa), liên kết chéo (giai thừa) để tập khởi lên Pháp hữu vi mới nói theo Phật Pháp là vô lượng các mối Duyên hệ thì tạo nên vô lượng các Pháp duyên khởi (nhân duyên, trùng trùng Duyên khởi).
Pháp hữu vi được cấu tạo bởi Sắc pháp (hữu hình, vật chất, vật lý) và Danh pháp (vô hình, tâm thức, tâm lý). Chiếu theo Pháp duyên khởi thì Duy tâm hay Duy vật đều là Tà kiến (Biên kiến) vì các pháp hình thành là do nhân duyên, do duyên mà hợp thành (Pháp duyên hợp). Chúng sinh hình thành là do
Xem thêm: “Dục ái”, “Dục giới”, “Dục dục”, “Pháp dục”, “Tác dục”, “Dục tầm”, “Tâm tầm dục”, “Ly dục”
Dục ái (Kāma Taṇhā)
Dục ái (Ái dục, Tâm tầm dục, Dục tầm) là một trong ba luyến ái (Dục ái, Hữu ái, Phi hữu ái), là Ái trong cõi Dục giới. Tam ái là nguồn gốc, nguyên nhân của khổ đau (Tập đế).
Dục ái là luyến ái theo nhục dục Ngũ trần (Kāma Taṇhā), là sự tầm cầu năm Trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc) tốt đẹp, vui sướng hay những Pháp khả ái trong Dục giới (tiền tài, danh vị, chức tước). Dục dục (hay tham dục).
Ái dục chia làm 6 loại gồm Sắc ái, Thinh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái và Pháp ái. Như khi thấy sắc tốt đẹp vừa ý thích thì phát sanh lên lòng tham muốn ước ao cho được sắc ấy, nếu gặp sắc xấu xa nghịch ý mình thì lại ước ao muốn không cho thấy gặp sắc ấy. Tương tự, Ái dục nơi Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp cũng khởi sanh lên như thế. Dục ái (Tham ái) chính là một trong năm Pháp triền cái (Nīvaraṇa). Đây là một loại “mong ước xấu”, đưa đến kết quả tai hại (bất thiện).
Luyến ái thuộc phạm trù Dục thủ trong Tứ thủ (xem thêm “Tứ thủ”, “Dục thủ”)
Dục ái -> Dục tầm (Dục tâm tầm Dục cảnh) -> Dục sanh (thỏa mãn dục) -> Dục thủ (chấp thủ) -> Hữu ái -> Dục cảnh -> Dục ái (Dục tâm) -> Dục tầm nữa và mãi.
“Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách”
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.”
-
“Mưa không có then khóa mà giữ được khách
Sắc đẹp chẳng phải sóng gió mà làm đắm đuối người ta”
-
“Muôn sợi dây đồng không cột được chân người dũng sĩ.
Chỉ 1 sợi tóc mỹ nhân cũng đủ trói buộc ý chí anh hùng”
“Anh hùng không qua nổi ải mỹ nhân”
“Do Tham ái tạo thành Nhân căn của Hiện hữu/Kiếp sống mới, nên Đức Thế Tôn đã xác định: Tham ái là Nhân của Tái sinh” (Mahasi Sayadaw)
Xem thêm “Ái”, “Tham dục”, “Tham ái”, “Hữu ái”, “Phi hữu ái”, “Ái-Thủ-Hữu”
Dục dục (Dhamma Chanda)
Dục dục = Dục ái, Tham ái
Dục giới (Kāmāvacara)
Dục giới (Kāmaloka, Kāmāvacara)
Chúng sinh trong Cõi dục giới đều lấy Lục trần gồm Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp làm đối tượng. Do lấy (6 Trần cảnh) làm đối tượng nên chúng sanh trong Cõi dục giới thường khởi tâm yêu/ghét (đối đãi nhị nguyên) khi Căn duyên với Trần.
Trong lục đạo luân hồi thì Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh và A-tu-la là Ác đạo (4 đường ác); Cõi người và 6 Cõi trời dục giới/Lục dục thiên là Thiện đạo (7 nẻo thiện).
Dục giới là cõi có khối lượng, trọng lượng, có hình tướng, màu sắc để 5 căn nhận biết.
Xem thêm: “Cõi trời sắc giới”, “Cõi trời vô sắc giới”
Dục hỷ
Dục hỷ = Ham thích, Ham muốn, Yêu thích. Vui thú, thích thú khi thỏa mãn Dục lạc
Dục tầm
Dục tầm = Tâm tầm dục (tìm kiếm, mong/mưu cầu, săn/theo đuổi). Xem “Dục ái”
Dục ái -> Dục tầm (Dục tâm tầm Dục cảnh) -> Dục sanh (thỏa mãn dục) -> Dục thủ (chấp thủ) -> Hữu ái -> Dục cảnh -> Dục ái (Dục tâm) -> Dục tầm nữa và mãi.
Dục thủ
Dục ái -> Dục tầm (Dục tâm tầm Dục cảnh) -> Dục sanh (thỏa mãn dục) -> Dục thủ (chấp thủ) -> Hữu ái -> Dục cảnh -> Dục ái (Dục tâm) -> Dục tầm nữa và mãi.
Dục thủ là muốn có dục nhưng không được (Cầu bất đắc khổ) -> Tham, Sân-Ưu
Dục thủ là có dục rồi nhưng giữ không được, không duy trì được (Hoại khổ, Chấp khổ) -> Tham, Sân-Ưu
Dục trần (Dục cảnh)
Dục trần là những dục lạc (thú vui, điều gây ham muốn, thích thú) trong Trần cảnh
Sắc dục, Thanh dục, Hương dục, Vị dục, Xúc dục, Pháp dục
Dụng tâm
Dụng tâm là tác dụng, sở dụng, công dụng của các loại Tâm; là vai trò, ý nghĩa của Tâm.
Ví dụ: vai trò, tác dụng của Phiền não là dẫn dắt chúng sinh đi luân hồi. Hết Phiền não là chúng sinh không còn tái sinh nữa (chết hẳn)
Đ
Đáo bỉ ngạn
Đáo bỉ ngạn (到彼岸) là Ba-la-mật dịch sang Tiếng Hán. Xem “Ba-la-mật”
Đại kiếp
Một Đại kiếp, tức là một thời kỳ thành và hoại của một “tam Thiên đại Thiên thế giới” >< 1 Đại kiếp có 1.334.240.000 năm. 2 thông tin này mâu thuẫn nhau!
1 đại kiếp = 80 tiểu kiếp
1 đại kiếp = 4 trung kiếp
Dề-bà-đạt-đa (Devadatta) mắc tội và đã bị đọa trong địa ngục A-tỳ. Địa ngục A-tỳ (địa ngục Vô gián) có nghĩa là khổ đau không gián đoạn. Một ngày một đêm bằng 50 Tiểu kiếp ở thế gian. Mắc một tội trong Ngũ nghịch thì phải đọa trong địa ngục Vô gián một Đại kiếp, mắc năm tội thì phải thọ mạng năm Đại kiếp.
Đại thiên
Tiểu thế giới = Thái dương hệ (hệ mặt trời) bao gồm mặt trời + các mặt trăng (hành tinh thuộc hệ mặt trời). Loài người đang sống trong một Tiểu thế giới.
Tiểu thiên thế giới = 1000 (1k) Tiểu thế giới, thuộc phạm vi cõi trời Phạm thiên của Sắc giới
Trung thiên thế giới = 1000 (1k) Tiểu thiên thế giới, thuộc phạm vi cõi Vô lượng tịnh thiên của Sắc giới
Đại thiên thế giới = 1000 (1k) Trung thiên thế giới, thuộc phạm vi cõi Quang âm thiên của Sắc giới
“Tam thiên đại thiên thế giới” chính là Đại thiên thế giới được gộp từ 3 đại lượng Tiểu, Trung, Đại
Đại viên cảnh trí
Bạn có biết Đại Viên Cảnh Trí là đỉnh cao trí tuệ trong Phật giáo không? Đây là cảnh giới viên mãn mà bậc giác ngộ đạt đến, nơi mà tất cả phân biệt, vọng tưởng, chấp trước đều tiêu tan, chỉ còn lại sự sáng suốt tuyệt đối. Trong video này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sâu về khái niệm này qua nhiều góc độ khác nhau!