Tứ diệu đế (Cattāri Ariya-Saccāni): Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế

1 bầu chọn / điểm trung bình: 5

Tứ thánh đế hay còn gọi là Tứ diệu đế (Cattāri Ariya-Saccāni): Khổ đế (Dukkha Saccā), Tập đế (Samudaya Saccā), Diệt đế (Nirodha Saccā), Đạo đế (Magga Saccā)

Tứ thánh đế hay còn gọi là Tứ diệu đế (Cattāri Ariya-Saccāni): Khổ đế (Dukkha Saccā), Tập đế (Samudaya Saccā), Diệt đế (Nirodha Saccā), Đạo đế (Magga Saccā)

Saccā (đế) là sự thật vượt thoát thế gian, sự thật Chân đế, sự thực siêu thế, là Chân lý của thực tại tuyệt đối vượt thoát khỏi thực tại tương đối nơi trần gian.

Trí hiểu biết về Tứ thánh đế là điều cần thiết không thể thiếu được. -> Chánh tri kiến (Chánh kiến)

Tứ Thánh Đế cùng với những định nghĩa của chúng cũng vậy, có được do thắng trí thể nhập của Ngài, và được tu tập theo Trung Đạo hay còn gọi là Bát Thánh Đạo.

KHỔ ĐẾ - CHÂN LÝ ĐẦU TIÊN TRONG TỨ THÁNH ĐẾ: 12 NỖI KHỔ VÀ 7 LOẠI KHỔ

… Sự suy đoán không có chỗ đứng trong Giáo Pháp của Đức Phật. Chân lý mà Ngài dạy được chính Ngài khám phá bằng tuệ giác của mình.

 

Tứ Thánh Đế ấy là:

Khổ đế (Dukka Saccā)

KHỔ ĐẾ (DUKKHA SACCA)

“Idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhaṃ ariyasaccaṃ – jātipi dukkhā, jarāpi dukkhā, maraṇampi dukkhaṃ, soka parideva dukkha domanassupāyasāpi dukkha , piyehi vippayogo dukkho, appiyehi sampayogo dukkho. Yampicchaṃ na labhati tampi dukkhaṃ – saṃkhittena pañcupādānakkhandhā.”

“Này các Tỳ-kheo, Ðây là Thánh đế về Khổ, hay sự thực về khổ mà các bậc Thánh nên biết. ⑴ Sanh là khổ, ⑵ già là khổ, ⑶ chết là khổ, ⑷ sầu, ⑸ bi, ⑹ khổ, ⑺ ưu, ⑻ não là khổ, ⑼ ái biệt ly là khổ, ⑽ oán gặp nhau là khổ, ⑾ cầu không được là khổ (chú giải nói rằng mong có được <người hay vật gì đó> nhưng không đạt được những gì mình muốn cũng là khổ). Tóm lại, ⑿ năm thủ uẩn (năm uẩn tạo thành đối tượng của chấp thủ hay nhóm danh-sắc chấp thủ khái niệm Tôi, của tôi, thường, lạc, ngã…) là khổ”.

Chân lý thứ nhất đề cập đến Sự Thực của Khổ (Khổ Đế), được mô tả qua 12 nỗi khổ như sau:

① Sanh, ② Già, ③ Chết, ④ Sầu, ⑤ Bi, ⑥ Khổ, ⑦ Ưu, ⑧ Não, ⑨ Oan gia hội (gần gũi người hay vật mình không thích), ⑩ Ái biệt ly (chia lìa người hay vật mình yêu mến), ⑪ Cầu bất đắc (không được những gì mình mong muốn), ⑫ Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.

BẢY LOẠI KHỔ

Khổ còn có thể được phân làm bảy loại:

1. Dukkha dukkha (Khổ-khổ)

2. Viparināma dukkha (Hoại khổ)

3. Saṅkhāra dukka (Hành khổ )

4. Paṭicchanna dukkha (Khổ ngấm ngầm)

5. Apaṭicchanna dukka (Khổ rõ rệt)

6. Pariyāya dukkha (Khổ gián tiếp)

7. Nippariyāya dukkha (Khổ trực tiếp)

1. DUKKHA DUKKHA (KHỔ-KHỔ)

Trong bảy loại này, những đau đớn, nhức nhối, và khó chịu ở thân là một hình thức của khổ, trong khi những lo lắng, sầu khổ, bất hạnh và buồn phiền tạo thành một hình thức của khổ khác.

Hai hình thức này kết hợp với nhau tạo thành loại khổ thứ nhất — Dukkha-dukkaha (Khổ-khổ).

Ở đây vì bản chất của nó là khổ, tên gọi của nó cũng là khổ, nên nó là dukkha-dukkha (khổ khổ), cái khổ mà các hữu tình chúng sanh ai nghĩ đến cũng đều kinh hãi.

Ghi nhớ: cái khổ không thể chịu đựng được của thân và tâm là khổ-khổ.

2. VIPARINĀMA DUKKHA (HOẠI KHỔ)

Những cảm thọ lạc ở thân phát sanh do sự xúc chạm vừa lòng gọi là thân lạc (kāya sukha); những trạng thái hân hoan của tâm phát sanh do nhớ lại các dục trần khả ái gọi là tâm lạc (cetasika sukha); hai trạng thái sung sướng này làm vừa lòng mọi người, mọi sinh vật.

Có thể nói, cả ngày lẫn đêm, tất cả mọi chúng sanh đều đuổi theo hai trạng thái hạnh phúc này, thậm chí liều cả mạng sống để có được chúng, và cho dù có đạt được, thì hạnh phúc của họ cũng không có giới hạn.

Tuy nhiên, trong khi họ đang ngây ngất thoả mãn niềm vui, nếu những dục trần đem lại cho họ sự thích thú và khoái lạc ấy biến mất hay bị tiêu hoại đi, thì sự kích động và đau buồn của họ sẽ là rất lớn.

Khi của cải họ tích luỹ được dưới hình thức vàng, bạc, bất ngờ vì một lý do nào đó mất đi; khi cái chết hay sự chia lìa xảy đến với một người thân như vợ chồng hay con cái trong gia đình của họ, sầu khổ và ưu não cùng cực sẽ phát sanh, thậm chí còn có thể gây ra sự loạn trí.

Như vậy hai hình thức của lạc này, thân lạc (kāya sukha) và tâm lạc (cetasika sukha), cũng là một loại khổ, được gọi là hoại khổ (Viparināma dukkha), nghĩa là khổ do sự thay đổi, biến hoại.

Khi lạc này tồn tại, chúng có vẻ như rất thú vị, chỉ bị thay thế bằng sầu khổ và ưu não cùng cực khi chúng biến hoại mà thôi. Vì vậy chúng cũng là khổ.

• Ghi nhớ: Lạc phát sanh từ sự thoải mái của thân và hoan hỷ của tâm được gọi là Hoại Khổ (Viparināma dukkha)

3. SAṄKHĀRA DUKKHA (HÀNH KHỔ)

Cảnh bình thường mà một người thấy, nghe hay tiếp xúc hàng ngày, những dục trần bình thường như vậy không làm khởi lên một cảm thọ lạc, cũng không kích thích một cảm thọ khổ hay khó chịu.

Tình trạng trung hoà mà bản chất của nó vốn không khổ không lạc này được đặt tên là thọ xả (upekkhā vedanā).

Tuy nhiên, xả trung tính này không thường hằng. Nó đòi hỏi phải có một sự duy trì liên tục những điều kiện cần thiết cho sự tương tục của nó. Dĩ nhiên, điều này hàm ý phải có một nỗ lực gian khó, và đó chính là Khổ. Vì vậy cảm thọ xả, hay không lạc không khổ này được đặt tên là Hành Khổ (saṅkhāra-dukkha).

Ngoài thọ xả này ra, tất cả các hành danh và sắc khác của cõi thế gian cũng được gọi là Hành Khổ (saṅkhāra-dukkha), vì chúng cần phải tạo điều kiện không ngừng.

• Ghi nhớ: Thọ xả và các hành danh&sắc của cõi thế gian (hiệp thế) được gọi là Hành Khổ (saṅkhāra-dukkha).

Thọ lạc, để duy trì nó, cũng đòi hỏi phải được tạo điều kiện không ngừng, như vậy đúng lẽ nó phải được xếp vào loại Hành Khổ, nhưng các nhà chú giải bỏ nó ra khỏi sự phân loại này vì nó đã được đặt cho một tên riêng là Hoại Khổ (Viparināma dukkha).

Tuy thế, nó cũng phải được xem như Hành Khổ, vì điều dễ hiểu là để duy trì nó cần phải có một sự áp dụng đáng kể.

Ba loại khổ vừa giải thích ở trên cần phải được hiểu rõ, vì một sự nắm bắt thấu đáo ba loại khổ này sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong việc tuệ tri Khổ Đế.

4. PAṬICCHANNA DUKKHA

(Khổ ngấm ngầm)

Những sự đau đớn ở thân như đau tai, đau răng, đau đầu, no hơi sình bụng v.v…và những nỗi đau trong tâm phát sanh do cầu bất đắc, ham muốn thiêu đốt, thất vọng, sầu tủi và lo lắng, được gọi là ‘Khổ ngấm ngầm / Khổ Che Dấu - Paṭicchanna Dukkha', bởi vì chỉ người đang khổ mới biết chúng, còn người ngoài chỉ biết được khi người này biểu lộ ra mà thôi.

Vì khổ này không hiển thị công khai, nên nó cũng được gọi là ‘Khổ Không Hiển Lộ Rõ - Apākata'.

5. APAṬICCHANNA DUKKHA

(Khổ rõ rệt)

Những đau đớn ở thân do dao cắt, giáo đâm, đạn bắn không bị che dấu mà hoàn toàn rõ ràng và hiển lộ ra ngoài một cách công khai. Vì thế nó được gọi là ‘Khổ rõ rệt / Khổ Phơi Bày - Apaṭicchanna Dukkha', hay ‘Khổ Minh Bạch - Pakata Dukkha'.

6. PARIYĀYA DUKKHA

(Khổ gián tiếp)

Tất cả các hành danh và sắc có thể làm phát sanh những nỗi đau ở thân và tâm không nằm trong cái khổ chính yếu, nhưng vì chúng được xem như căn cứ cho khổ dưới hình thức này hay hình thức khác, cho nên chúng được gọi là 'Khổ gián tiếp - Pariyāya Dukkha).

Xét về cái khổ mà chắc chắn sẽ phát sanh từ chúng (các hành danh sắc) thì hoàn toàn đáng sợ. Như trong những ví dụ vừa nêu, nó đáng sợ giống như bắt người nào phải bảo đảm một sự giao dịch bằng cách ký một khế ước phải thực hiện sự đền bù sau đó vậy.

7. NIPPARIYĀYA DUKKHA

(Khổ trực tiếp)

Khổ Khổ (dukkha-dukkha) là loại khổ nội tại. Hoạt động của nó không có tính cách gián tiếp, và do đó nó được gọi là 'Khổ Trực Tiếp - nippariyāya dukkha'.

GIÀ VÀ CHẾT

NHỮNG NỖI KHỔ ĐƯỢC MÔ TẢ TRONG KHỔ THÁNH ĐẾ, CHÂN LÝ ĐẦU TIÊN CỦA TỨ THÁNH ĐẾ

② GIÀ LÀ KHỔ (JARĀ DUKKHA)

Già có nghĩa là trở nên tóc bạc, răng rụng, da nhăn, hay nói cách khác, tình trạng suy tàn đã bắt đầu và có thể nhận ra trong các danh uẩn và sắc uẩn của một kiếp sống.

Tuy nhiên cái già của tâm không được rõ ràng như vậy; những dấu chỉ của nó như kém trí nhớ và lẫn (lẩm cẩm lúc tuổi già) chỉ trở nên đáng chú ý khi người ta đã rất già.

Tuy nhiên ở đây, khi nói tới Jarā (Già), chúng tôi muốn nói tới tình trạng suy tàn theo nghĩa trở nên tóc bạc, da nhăn…có thể thấy rõ được.

Trong Phật học Jarā hay Già chỉ liên quan đến sát na trụ (thiti) của các uẩn danh và sắc chứ không có tính chất khổ như nó đang là: tuy nhiên do già mà tình trạng không còn sinh lực của toàn bộ cấu trúc cơ thể xuất hiện, sự biến mất của tuổi trẻ, sự tổn thất của trí nhớ và trí lực, người trẻ bất kính và xem thường (như bị gọi là ‘con người cổ hủ’, ‘ông già’, ‘bà già’…), xã hội đối xử như một sự trở ngại (cho tiến bộ).

Tất nhiên, những bất lực ấy làm phát sanh sự khổ thân và khổ tâm.

Và do nó tạo thành cội nguồn của khổ thân và khổ tâm, Đức Phật nói Già (Jarā) là cái Khổ đáng sợ.

Với tóc bạc, răng long…sự suy tàn đã bắt đầu không thể chuyển đổi được.

Như vậy, việc ‘già là một nỗi khổ đáng sợ’ rõ ràng đến độ chúng ta không cần phải nói thêm chi tiết nữa về nó.

③ CHẾT LÀ KHỔ (MARANĀ DUKKHA)

Chết có nghĩa là sự diệt của Danh Mạng Quyền và Sắc Mạng Quyền (Jīvita nāma&rūpa) từng hoạt động không ngừng từ lúc thụ thai do nghiệp (kamma) tạo điều kiện trong một hiện hữu mới.

Liên quan đến điều này Đức Phật nói ‘Sabbe bhāyantu maccuno’, nghiã là tất cả các chúng sanh đều sợ chết.

Chết do Sanh làm duyên, ở đây, ⑴ chết do bức tử, ⑵ chết do những nguyên nhân tự nhiên, ⑶ chết do chấm dứt tuổi thọ, ⑷ chết do hết quả nghiệp thiện, đều là những từ đồng nghĩa mô tả cùng một hiện tượng, đó là sự diệt của Danh và Sắc Mạng Quyền.

Chết chỉ có nghĩa là sát-na hoại của danh mạng quyền và sắc mạng quyền, và tự nó không phải là sự đau đớn hay đau khổ gì cả.

Tuy nhiên, khi cái chết đến, người ta phải từ bỏ xác thân và để lại đằng sau những người thân yêu gần gũi nhất của mình, từ bỏ quyến thuộc và bạn bè cùng với tất cả tài sản của mình.

Ý nghĩ về việc lìa bỏ kiếp sống hiện tại sẽ làm cho họ rất sợ hãi, và hầu như trước cái chết, mọi chúng sanh đều sợ hãi. Không biết chắc mình sẽ sanh về đâu sau khi chết cũng làm cho con người kinh hoàng nữa.

Chính do bản chất đáng sợ của nó mà Đức Phật đã mô tả chết là khổ.

Theo chú giải, người ác đè nặng với quá khứ tội lỗi, lúc lâm chung sẽ

⑴ thấy những ác nghiệp họ đã làm (kamma - nghiệp), hay

⑵ thấy những dấu hiệu liên quan đến ác nghiệp của họ (kamma-nimitta - nghiệp tướng), hay

⑶ thấy những dấu hiệu về cảnh giới ác mà họ sẽ phải thọ sanh sau khi chết (gati nimitta - thú tướng),

tất cả những hình ảnh này đem lại cho họ sự đau khổ cực độ về tinh thần.

Người thiện, dù tích chứa được những thiện nghiệp, song khi cái chết đến gần, do không thể chịu đựng được sự chia lìa với những người và vật họ yêu mến, nên cũng có những cái khổ như vậy.

Khi cái chết đến gần, mọi người đều phải chịu những cuộc tấn công khốc liệt của bệnh tật, đau ốm vốn tàn phá cơ thể với những cơn đau không thể chịu đựng được.

Do chết được xem là căn cứ cho những đau đớn về thể xác và tinh thần như vậy, nên nó đã được Đức Phật xác định là Khổ (dukkha).

Tập đế (Samudaya Saccā)

...

Diệt đế (Nirodha Saccā)

Đạo đế (Magga Saccā)